Lịch sử Cứu độ (1)

[ Điểm đánh giá5/5 ]1 người đã bình chọn
Đã xem: 6567 | Cập nhật lần cuối: 2/6/2015 9:00:16 AM | RSS

Phần I: Cựu Ước – Chuẩn bị Ơn Cứu độ

Chương I: Sáng thế - Con người – Sự tội

Khi một luật sĩ hỏi Đức Giêsu ông ta phải làm gì để được sự sống đời đời. Ngài đáp: “Trong lề luật đã viết gì? Ông đọc làm sao? Và người ấy đáp: “Ngươi phải yêu mến Chúa, Thiên Chúa ngươi hết lòng ngươi, hết linh hồn người, hết sức lực ngươi và hết trí khôn ngươi và đồng loại ngươi như chính mình”. Ngài nói với người ấy: “Ông đã trả lời cách chí lý, hãy làm thế và ông sẽ được sống”. Ông ấy muốn biện chỉnh cho mình thì nói cùng Đức Giêsu: “Nhưng ai là đồng loại của tôi?” Để đáp lại câu hỏi quan trọng này, Đức Giêsu kể câu chuyện bắt đầu bằng những lời ngày nay đã trở nên quen thuộc: “Người kia đi từ Giêrusalem đế Giêricô, và đã sa vào ổ cướp, chúng lột hết áo xống và đánh nhừ tử người ấy, đoạn chúng bỏ mặc người ấy nửa sống nửa chết mà đi mất”. (Lc 10,25-30). Đây, như chúng ta biết là dụ ngôn người Samari từ thiện. Để đáp câu hỏi của người luật sĩ, Đức Giêsu đã dùng một câu chuyện. Câu chuyện ấy dạy chúng ta một cách linh động rằng: hết thảy mọi người, ngay cả những kẻ vốn là thù địch của chúng ta, đều phải được coi như là đồng loại của chúng ta, và chúng ta phải thi thố tình yêu và lòng nhân từ đặc biệt cho kẻ nào cần sự giúp đỡ của chúng ta.

Trong một dịp khác (Lc 15, 11) và tiếp theo, Đức Giêsu kể câu chuyện người đàn ông với hai người con. Người con thứ của ông ấy đòi chia phần gia tài cho mình rồi đem đi phung phí bằng rượu chè, đào đĩ và đàn hát, chẳng bao lâu tiền bạc tiêu phí hết sạch và mất hết bạn bè. Cuối cùng anh chàng phải đi chăn lợn thuê, và cho lợn ăn những thực phẩm còn ngon hơn miếng ăn của anh ta. Sau hết, anh ta quay về nhà và mong người cha rộng tình tha thứ. Đây, dĩ nhiên, là dụ ngôn “Người con trai hoang đàng”. Nó dạy chúng ta một chân lý quan trọng nhất đã từng được mặc khải cho nhân loại: Thiên Chúa yêu thương loài người, và Người luôn mở rộng cánh tay để đón họ trở về với lòng thống hối ăn năn sau khi đã trầm luân trong tội lỗi.

Vấn đề chúng tôi muốn đặt ra đây là như thế này” những dụ ngôn “Người Samari từ thiện” và “Người con trai hoang đàng” có phải là những câu chuyện có thật không? Điều này sẽ giúp đưa đến vấn đề sự thật trong văn chương, một vấn đề không đơn giản như người ta tưởng.

Cái ý niệm vế sự thật có một ý nghĩa khác đi phần nào tùy theo loại văn chương mà nó được áp dụng. Quyển sách lịch sử hiện đại chẳng hạn, là thật nếu những sự kiện của nó là chính xác, nếu địa lý và niên biểu của nó là rõ ràng, và nếu nó quảng diễn ý nghĩa và các mối liên hệ giữa các biến cố một cách đúng đắn. Nhưng về phần thi ca thì sao? Không gặp được sự thật nào trong đó sao? Và còn về dụ ngôn nữa? Nó cũng phải có sự thật của nó chứ? Sự thật của nó ra sao, chắc bạn có thể đoán được. Một dụ ngôn là thật nếu điều đó dạy ta là thật. Và chắc chắn rằng những điều mà dụ ngôn “Người Samari từ thiện” và “Người con trai hoang đàng” dạy chúng ta đều là thật. Mọi người là đồng loại của ta và Thiên Chúa thương yêu chúng ta.

Dụ ngôn không phải là lịch sử. Chúng là những câu chuyện đơn sơ nhằm mục đích dạy một sự thật nào đó. Chúng thường quan trọng hơn nhiều so với bất cứ một quyển lịch sử thế tục nào khác. Đây là điểm cốt yếu: Đức Giêsu dạy nhiều chân lý quan trọng xuyên qua những mẩu chuyện đơn giản, lý thú và dễ nhớ. Như chúng ta sẽ thấy ngay lập tức những tác giả Cựu Ước cũng thường làm y như vậy.

Sáng thế (đọc Kn 1,1 – 2,3)

Chương đầu của sách “Khởi nguyên” đối với tất cả chúng ta thật là quen thuộc. Chúng ta đọc thấy một cách nhanh chóng rằng Thiên Chúa sáng tạo nên thế giới, trong sáu ngày Ngài làm cho nó được ổn định trật tự, đến ngày thứ bảy, ngày Sabbath Ngài nghỉ. Khi theo dõi sự diễn tả các công việc khác nhau, chúng ta đọc thấy rằng Thiên Chúa trước hết tách ánh sáng khỏi sự tối tăm. Kế đó Ngài tách nước phía trên ra khỏi nước phía dưới bằng một bầu trời, bầu trời này giống như một mái tròn cứng, nó đầy những nước nguyên thủy riêng ra, như thế, một phần nước ở bên trên bầu trời (điều này giải thích tại sao có mưa), và một phần nước ở bên dưới bầu trời. Khoảng giữa là không khí. Sang ngày thứ ba, Thiên Chúa lại tách nữa, lần này thì tách địa cầu với nước phía dưới. Kết quả là: nước phía trên vòm trời, rồi đến chính vòm trời, rồi đến không khí ngay liền dưới nó, và dưới tận cùng là nước, phía dưới với quả đất từ nước nhô lên.

Sang ngày thứ tư, Thiên Chúa tạo dự mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao. Điều này đáng ngạc nhiên bởi vì chúng ta đã được nói về ánh sáng ở ngày thứ nhất, và chắc chắn rằng mặt trời, mặc trăng và các ngôi sao đều liên quan với ánh sáng. Vậy ngày thứ tư chắc là có liên quan cách nào đó với ngày thứ nhất.

Sang ngày thứ năm, xuất hiện chim trên trời và cá dưới biển. Điều này cũng đáng chú ý bởi vì nó đưa độc giả trở lui lại công việc của ngày thứ hai. Lúc ấy bầu trời phân chia vũ trụ thành hai vùng: không khí và nước. giờ đây chính những vùng nước ấy lại được trang trí bằng những cư dân của chúng trên trời thì có chim, dưới nước thì có cá. Do đó ngày thứ năm liên quan với ngày thứ hai.

Nếu quả thật công việc của ngày thứ nhất liên quan với công việc ngày thứ tư, và công việc ngày thứ hai liên quan với công việc ngày thứ năm thì cái gì xảy ra trong ngày thứ ba chắc cũng sẽ ảnh hưởng đến công việc ngày thứ sáu. Và đúng như vậy, trong ngày thứ ba, quả đất được tách ra khỏi nước ở phía dưới. Ngày thứ sáu, Thiên Chúa tạo dựng thú vật và (cuối cùng) tạo dựng con người để sống trên quả đất. Bởi đó, công việc ngày thứ sáu liên quan với công việc ngày thứ ba.

Sự tường thuật về sáng thế một cách đơn giản như vậy cho thấy rõ ràng rằng tác giả đã sử dụng một lối diễn tả rất là nghệ thuật. Ba ngày đầu tiên nói về sự phân tách, 3 ngày cuối cùng nói về sự cư trú. Cái gì Thiên Chúa đã phân tách trong ngày thứ nhất, thì Ngài trang trí trong ngày thứ tư; cái gì Ngài phân tách trong ngày thứ hai thì Ngài trang trí trong ngày thứ năm; cái gì Ngài phân tách trong ngày thứ ba thì Ngài trang trí trong ngày thứ sáu. Lối hành văn cân đối một cách nghệ thuật như thế làm cho chúng ta nghĩ rằng đó là một lối nói bóng bẩy bằng văn vần chứ không phải là một câu chuyện lịch sử bằng văn xuôi.

Những yếu tố có tính chất văn vần khác nữa cũng khá rõ ràng. Những câu nói tương tự chạy xuyên qua suốt cả chương, chẳng khác nào những điệp khúc trong một bài hát. Ví dụ: “Thiên Chúa phán: ‘Hãy có ánh sáng’ và kết quả ngay lập tức ‘và ánh sáng đã có’”. Sau đó Thiên Chúa thấy rằng kết quả thật là tốt đẹp. Rồi Ngài đặt tên cho nó. Buổi chiều và buổi mai tiếp theo, một ngày khác. Chính sự lặp lại thường xuyên những câu tương tự làm cho chúng ta có vững lý do hơn để nghĩ rằng đó là một văn bản có nghệ thuật thi ca hơn là một bài viết có tính cách khoa học.

Điều này đưa chúng ta đến kết luận rằng cái mà chúng ta có ở đây là một câu chuyện rất có nghệ thuật lý thú và dễ nhớ. Sự cân đối của những công việc, sự lặp đi lặp lại những câu nói, làm cho nó trở thành thứ vận chuyển là chỉ cần nghe một lần cũng có thể nhớ cách dễ dàng, truyền lại cho bất cứ thính giả nào chú ý nghe. Sự sắp xếp 6 ngày, rồi theo ngày Sabbath chính là cách sắp xếp việc làm của người Do thái. Bởi vì tác giả nhất định cố ý bảo các đồng bào Do thái của ông rằng họ phải nghỉ trong ngày thứ bảy cũng như chính Thiên Chúa đã được hình dung là có nghỉ trong ngày đó vậy.

Một yếu tố khác trong câu chuyện này là chính tác giả không phải là một nhà khoa học thực nghiệm đứng ghi chép những sự kiện lịch sử. Cái điều mặc dù tác giả quan tâm không phải là khoa học, nhưng chính là thần học, tác giả không nhằm mô tả cách cấu tạo hữu hình của vũ trụ, nhưng chính là mô tả bản thể và quyền lực Thiên Chúa và sự cao quý của con người, một kiệt tác trên địa cầu. Khi nói về thế giới tác giả cũng làm như thế với một ngôn ngữ không phải là ngôn ngữ khoa học, song là thứ ngôn ngữ của những biểu hiệu. Trời, bầu trời, theo cách tác giả mô tả giống như một mái tròn. Nói về thế giới, tác giả chỉ dùng cái kiểu nói mà những người đồng thời và đồng quê hương với ông quen dùng để mô tả nó. Nếu những lỗi cắt nghĩa có tính khoa học của thế kỷ XX về sự cấu tạo thế giới được trình bày cho tác giả, chắc là tác giả đã nhún vai. Đó không phải là kiểu ông quan tâm. Ông muốn nói về Thiên Chúa; và ngôn ngữ cũng như những ý niệm của thời đại ông cũng đã qua đủ để giúp ông rồi. Hơn nữa, nếu ông được Thiên Chúa ban cho một kiến thức khoa học chính xác và đã viết ra như thế thì thử hỏi những người đồng thời và đồng quê hương với ông làm sao mà có thể hiểu ông được? Sơ đồ sau đây cho thấy lối sáng thế luận của người Do thái mà tác giả đã dùng và sự cân đối các công việc mà ông đã theo:

Lịch sử Cứu độ (1)Khi đã chấp nhận rằng tác giả của chúng ta quan tâm đến thần học hơn là khoa học vật lý và lối hành văn của ông gần với văn vần hơn là văn xuôi, thì một vấn đề khác tự nhiên phải đặt ra: câu chuyện đó có thật không? Phải trả lời ngay rằng cái chương này trong sách “Khởi nguyên” là thật, hoàn toàn thật hiểu theo cái cách có thật của một dụ ngôn. Cái gì nó dạy và tất cả mọi huấn điều của nó đều hoàn toàn thật. Ngay cả bảng thống kê một phần những điều đã được dạy trong câu chuyện này cũng thật là đáng chú ý:

1. Chỉ có một Thiên Chúa, và tất cả các vật khác đều do Ngài tạo dựng.

2. Thiên Chúa là một Ngôi vị, Thiên Chúa hằng sống của tâm thần và ý muốn. Ngài không phải là một lực thiên nhiên nào đó, không phải là mặt trời, mặt trăng hay bão lụt. Và vốn là một Thiên Chúa có ngôi vị, Ngài có thể được yêu mến và phụng thờ hết tình.

3. Thiên Chúa tạo dựng thế giới từ hư vô. Cái huấn điều chứa đựng trong câu chuyện này đang được tranh luận. Tuy nhiên có thể rằng, vào lúc câu chuyện này được viết ra, có lẽ vào thế kỷ thứ VI trước Thiên Chúa Giáng sinh, thế giới Do thái đã tin ở sự sáng thế và tác giả có ý định dạy điều ấy.

4. Thiên Chúa là Chúa của trật tự. Câu truyện đã theo một trật tự tuyệt hảo và nhằm dạy độc giả rằng đó là đường lối hành động của Thiên Chúa.

5. Con người trổi xa hơn vạn vật trên thế giới. Nó được đề cập sau hết như là một kiệt tác của Thiên Chúa mới bàn định thầm với chính mình Ngài, và chỉ một mình con người được ban cho quyền cai trị trên thế giới loài vật.

6. Địa vị cao quý của con người ở chỗ nó là một tạo vật được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa và giống Ngài. Là một tạo vật có trí hiểu biết và quyết định, con người có thể thực hiện quyền cai trị của mình trên các tạo vật trong thế giới.

7. Hôn nhân là một địa vị được Thiên Chúa chúc lành.

8. Con người phải dành riêng ít nhất một ngày trong tuần cho Thiên Chúa.

9. Thế giới và mọi vật trên thế giới đã được dựng nên đều là tốt lành. Phát xuất từ bàn tay tạo dựng của Thiên Chúa, chúng mang trên mình dấu vết sự tốt lành của Ngài.

Đây không phải là những sự thật bé nhỏ, câu chuyện độc đáo này vừa ngắn, vừa chúng con nghệ thuật cao siêu và rất uyển chuyển đã bày tỏ đủ sự thật về Thiên Chúa và con người, để tạo nền tảng cho một khoa thần học rộng rãi và thấu đáo. Tuy nhiên, sự khôn ngoan và tuyệt mỹ của câu chuyện chỉ có thể được đánh giá một cách đầy đủ khi nào chúng ta nhận định được rằng lối mô tả này nhằm mục đích phản lại một câu chuyện khác của người ngoại giáo về việc sáng thế.

Câu chuyện sáng thế của người ngoại giáo thuộc miền Mêsôpôtamia bắt đầu bằng một thần nam và một thần nữ (phái tính là tối cổ). Những vị thần này sinh ra nhiều thần khác nhỏ hơn. Một cuộc giao chiến do đó xảy ra giữa cha mẹ và những kẻ nói dối. Trong cuộc chiến, vị thần nam bị giết, nhưng vị thần nữ tên là Tiamat, vẫn còn sống để tiếp tục chiến tranh với lũ con cái. Sau một trận giao tranh tàn bạo, vị thần nữ ấy bị giết. Từ thi hài của bà, mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao được cấu tạo. Đó là câu chuyện của người ngoại giáo. Nó ít nói về quan niệm của người ngoại giáo đối với thế giới, nhưng lại nói nhiều về những ý tưởng mộc mạc của họ đối với các thần linh của họ.

Chúng ta có thể tưởng tượng những người Do thái, vốn đã biết rõ câu chuyện này, đã lắc đầu cách mạnh mẽ và nói: “Nhưng Thiên Chúa không giống như vậy đâu”. Bởi thế họ kể câu chuyện của họ về Thiên Chúa, và qua dòng thời gian, câu chuyện này đã được viết ra thành chương thứ nhất trong sách “Khởi nguyên” do vị tác giả được Thiên khải. Nó dạy rằng không phải có nhiều vị thần nhưng chỉ có một vị duy nhất mà thôi, Ngài là một ngôi vị đáng cho chúng ta yêu mến và tùng phục. thế giới được tạo dựng không phải là do kết quả của những cuộc giao tranh và tàn sát, nhưng là do sự sắp xếp trật tự của ý muốn tối thượng của Thiên Chúa, ý muốn đó chứng tỏ quyền năng vô biên của Ngài. Con người không phải là đồ chơi của các thần linh, bị lệ thuộc vào sự ngông cuồng của họ, nhưng là chủ cai trị các tạo vật và là tấm gương phản ánh những sự thiện hảo của Thiên Chúa. Phái tính không phải là tối cổ, không phải là quan trọng hơn tất cả, nhưng là một phúc lành của Thiên Chúa và được bảo vệ qua hôn nhân. Con người mặc dù rất cao quý, nhưng vẫn chỉ là một tạo vật, và do đó, phải dành riêng ít nhất ngày sabbath để phụng thờ Đấng Tạo Hóa đã sinh ra mình. Sau hết, và đây là một điểm rất quan trọng cho vấn đề cứu rỗi, tất cả mọi sự đều do bàn tay Thiên Chúa mà ra và đều tốt lành. Thế giới lúc đó không cần sự cứu rỗi. Con người là bạn chí thân của Thiên Chúa.

Con người (đọc Kn 2,4-25)

Với chương 2 của “Khởi nguyên”, câu thứ tư bắt đầu một câu chuyện mới và hoàn toàn khác. “Thế đó sự tích trời đất, khi chúng được dựng nên”. Nó không nói cho chúng ta nhiều về sự sáng tạo thế giới, cho bằng nói về sự tạo thành người nam và người nữ. So với chương thứ nhất của “Khởi nguyên” thì nó xưa hơn nhiều và xem cũng bóng bẩy tượng trưng hơn nhiều. Độc giả thời này chắc là ít quen với kiểu nói rất bóng bẩy này. Không phải là chúng ta được kể những câu chuyện thần tiên hoang đường, nhưng là tác giả đang dạy những chân lý sâu xa bằng cách sử dụng một ngôn ngữ linh động và đầy sâu sắc. Điều cần thiết là chúng ta phải xuyên thâu qua cái vỏ bên ngoài của câu chuyện để tìm thấy cái nhân nằm ở bên trong, Chúng ta hãy lấy câu 19-20 chẳng hạn. Trong những câu này, chúng ta thấy những con thú vật đi diễn hành như trong gánh xiếc ngang qua trước mặt Ađam. Ông đặt tên cho chúng khi chúng đi ngang qua. Và khi cuộc diễn hành chấm dứt ông không gặp thấy một con vật nào giống ông cả. Đây chỉ làmột cách mô tả linh động nhằm mục đích dạy cách cụ thể rằng con người là chủ tể thế giới thú vật. Theo tâm lý của người Sêmít thời đó, chỉ người nào cầm quyền cai trị mới có quyền đặt tên. Đó là lý do tại sao Ađam được hình dung đang đặt tên cho thú vật. Ông không hề, như các bạn nhận thấy, đặt tên cho mặt trời, mặt trăng, các ngôi sao, ngày và đêm, bởi vì ông không có quyền hạn gì đối với chúng cả, chính Thiên Chúa đặt tên cho những thứ đó. Câu truyện thú vật diễn hành cũng dạy một sự kiện khác nữa: trong các thú vật trên quả đất, không có một con thú vật nào có nhân tính, ngoại trừ con người.

Trong khi đọc chương này cũng như chương kế tiếp, chúng ta phải nhớ luôn luôn rằng tác giả cũng thường dùng kiểu nói bóng bẩy. Nếu không nhớ điều ấy, chúng ta sẽ không thể nào hiểu rõ được tác giả muốn dạy gì, và sẽ gán cho tác giả những ý tưởng mà ông sẽ là người đầu tiên phủ nhận. Cách đây nhiều thế kỷ, thánh Âu-gus-tinh, một nhân vật lỗi lạc, cũng đã cảnh cáo cái lối quảng diễnmột cách quá nô lệ những bản văn về sự tạo dựng con người, trong đó đầy dẫy những thành ngữ tượng trưng bóng bẩy. Ngài cũng đã cảnh cáo việc chấp nhận những điều có vẻ khôi hài đối với những người không tin.

Lịch sử Cứu độ (1)

Vậy thì chúng ta đã được dạy như thế nào về sự tạo dựng người nam và người nữ đầu tiên? Ađam đã được tạo dựng bằng đất sét và hơi thở của Thiên Chúa. Những biểu hiệu ở đây thật là rõ ràng. Con người khác hẳn thế giới loài vật. Nó gồm có 2 yếu tố:

- Trước hết là vật chất. Đất sét là biểu hiện của vật chất chỉ vì thân thể của con người khi tan rã sẽ hóa thành đất sét của thế giới, và bởi vì trong tiếng Do thái, đất sét được gọi là ADAMAL, gần giống như từ ngữ AĐAM có nghĩa là người nam.

- Yếu tố thứ hai, thì cao siêu hơn nhiều và ít vật chất hơn, đó là sự sống của con người mà hơi thở của Thiên Chúa là một biểu hiện hiển nhiên nhất. Điều ta học được ở đây thật là tuyệt mỹ: con người có một sự sống, một sự sống hướng về Thiên Chúa cho đến nỗi nó được gọi là hơi thở của Thiên Chúa. Thật vậy, tất cả truyền thống Do thái Kitô hữu đều dựa trên niềm tin vững chắc rằng con người nhất thiết khác hẳn mọi sinh vật khác. Mặc dầu con người giống Thiên Chúa, nhưng nó không phải là Thiên Chúa; mặc dầu nó giống loài vật nhưng nó không phải là loài vật.

Một chân lý khác cũng được chứa đựng trong chương này: “Người nam ở một mình không tốt”. Thiên Chúa dựng cho người đàn ông một người bạn, một người bổ túc. Được dựng nên theo khuôn mẫu người đàn ông, cho nên người đàn bà sẽ trở thành một với người đàn ông trong hôn nhân và sẽ chiếm một địa vị bên cạnh người đàn ông (3, 12). Rồi chương này kết luận bằng cách nói rõ ràng về sự tốt lành và phái tính khi chưa bị hoen ố tội lỗi và về sự vững bền của hôn nhân. “Phen này, nàng là xương tự xương tôi, thịt từ thịt tôi; nàng sẽ đội danh là đàn bà vì đã được rút tự đàn ông. Bởi thế mà đàn ông sẽ bỏ cha mẹ mà khắng khít với vợ mình và họ sẽ nên một thân xác. Và cả hai đều trần truồng, người đàn ông và vợ mình, nhưng họ không hổ ngươi”. (2,23-25)

Sự tội (đọc Kn 3, 1 – 11, 26)

Chương thứ ba của “Khởi nguyên” thì hoàn toàn mạch lạc với câu chuyện trước đây về sự tạo dựng người nam và người nữ. Nó giới thiệu một nhân vật mới: kẻ cám dỗ. Cái hình ảnh của sự ác này mà sách “Khải huyền” (12, 9 và 20, 2) nhận ra chính là Satan, được hình dung là con rắn hoặc vì người thời xưa cho rằng con vật này có một sự khôn ngoan khác thường, hoặc vì con rắn là biểu hiện của những nghi lễ sinh sản nhiều một cách thô tục đã từng làm cho thế giới ngoại giáo thời đó phải nhiều khốn khổ. Dầu sao cái điều chính yếu mà chương này muốn dạy thì thật là rõ ràng. Con người phản nghịch với Thiên Chúa vì sự kiêu căng vô độ và cố tình không tuân phục. Sự phản nghịch này được mệnh danh là việc ăn trái cây biết thiện biết ác, nghĩa là một hành động làm cho Ađam và Eva có một kinh nghiệm thực tế về sự ác. Cũng có thể chỉ có nghĩa là sự tội được gây nên bởi việc con người muốn trở thành kẻ thẩm phán tối cao để xét sự thiện ác của một hành vi luân lý. Thật ra chúng ta không biết được những chi tiết chính xác của cái tội nguyên thủy này, vả chăng có biết được thì cũng không cần thiết. Sự kiện đáng buồn là con người đã phạm tội bằng cách phản nghịch ý muốn của Thiên Chúa.

Nhất định là hình phạt đi theo. Việc con người thách đố Thiên Chúa không đưa lại được sự bình đẳng với Thiên Chúa mà chỉ đem tới một ý thức hổ thẹn sâu xa. Phái tính mà Thiên Chúa đã ban cho để thông phần tạo dựng với Ngài đã trở nên hỗn loạn. Sự trần truồng đã trở nên một yếu tố khó chịu nơi hình thể con người. Đối với đàn bà, sự mang thai, trước kia đã được Thiên Chúa đề cao trong “Khởi nguyên”, đã trở nên một ân huệ có pha lẫn đau khổ. Quyền cai trị của con người trên mặt đất đã bị xét lại, để rồi phải làm lụng đổ mồ hôi, sôi nước mắt. Khốn hơn cả, tình nghĩa chí thân giữa con người và Thiên Chúa đã trở nên một điều xa xưa rồi. Văn bản của chúng ta xác định điều này một cách thật đơn giản: “Người đàn ông và vợ đã ẩn núp giữa cây cối trong vườn để tránh mặt Thiên Chúa” (3, 8).

Và sự chết nữa, nó cũng bước lên sân khấu của nhân loại: “Bởi ngươi là bụi đất, ngươi sẽ trở về đất bụi”, đó là phán quyết của vị quan tòa tối cao, con người sẽ phải chết. Cũng như Phaolô đã viết hàng trăm năm về sau: “Chỉ vì một người mà sự tội đã đột nhập trần gian; và vì tội, thì sự chết nữa”. (Rm 5, 12)

Sự sa ngã của con người đã khiến cho một quyền lực được tung hoành trên thế giới, Satan và vương quốc của nó. Nhưng yếu tố của vương quốc này là chính Satan, sự tội đã đưa lại sự chết thường theo sau bệnh tật, thật là một nhóm tứ quái: SATAN – SỰ TỘI – SỰ CHẾT – BỆNH TẬT. Chính vì thế mà ơn cứu độ là cần thiết. Con người đã để mất Thiên Chúa và sự Thiện Hảo của Thiên Chúa. Vương quốc của Satan đã được thiết lập trên mặt đất. Bởi đó, vì Satan, sự tội, sự chết, bệnh tật nên con người cần ơn cứu độ.

Chính ở tại điểm này, viễn ảnh ơn cứu độ được loan báo. Khởi nguyên (3, 15) tuyên bố một lời hứa huyền diệu. Nó nói đến sự thù hận, sự giao chiến giữa người đàn bà và Satan, giữa dòng giống người đàn bà và dòng giống Satan. Không rõ bằng cách nào gót chân của người đàn bà sẽ gây thương tích nơi đầu con rắn, và con rắn sẽ gây thương tích nơi gót chân kẻ tấn công nó. Đây thật làmột lời hứa lạ lùng. Nhất định là sẽ có giao tranh. Nhưng phần chiến thắng sẽ về ai? Chắc là về phía dòng giống người đàn bà, bởi vì chiếm được lợi thế hơn. Dòng giống của người đàn bà sẽ đạp nát đầu con rắn, là phần cần nhất cho sinh mạng của nó; đang khi đó thì con rắn chỉ gây được thương tích nơi gót chân của dòng giống người đàn bà mà thôi. Tất cả bầu không khí của câu chuyện cũng cho chúng ta thấy Thiên Chúa sẽ trợ lực cho bên nào, dĩ nhiên sẽ trợ lực cho con người, kiệt tác của Ngài.

Câu chuyện con người sa ngã kết thúc với biểu hiệu kẻ tấn công nó. Đây thật là một lời hứa lạ lùng. Nhất định là sẽ có giao tranh. Nhưng phần chiến thắng sẽ về ai? Chắc là về phía dòng giống người đàn bà, bởi vì chiếm được lợi thế hơn. Dòng giống của người đàn bà sẽ đạp nát đầu con rắn, là phần cần nhất cho sinh mạng của nó; đang khi đó thì con rắn chỉ gây được thương tích nơi gót chân của dòng giống người đàn bà mà thôi. Tất cả bầu không khí của câu chuyện cũng cho chúng ta thấy Thiên Chúa sẽ trợ lực cho bên nào, dĩ nhiên sẽ trợ lực cho con người, kiệt tác của Ngài.

Câu chuyện con người sa ngã kết thúc với biểu hiệu một vị thiên thần cầm gươm đứng canh gác cửa vườn địa đàng. Tác giả của chúng ta đã khẳng định một cách rất rõ rệt: Cái gì con người đã đánh mất thì không còn thể tìm lại được. Đã mất rồi và mất vĩnh viễn cái “tính bản thiện”. Mỗi một người trong chúng ta đều chứng kiến được sự thật của lời khẳng định này.

Gần cuối chương thứ ba của Khởi nguyên, lịch sử cứu độ mặc một hình thức rõ rệt. Con người đã sa vào quyền lực của vương quốc Satan. Bởi đó, con người cần được cứu độ. Và một lời hứa đã được tuyên bố, nói về những ngày giao tranh trước mắt và về điểm nguy hiểm nhất mà Satan và nhân loại có thể bị thương tích, Satan nơi đầu, con người đi gót chân.

Trong suốt 8 chương tiếp thep (4-11) sách “Khởi nguyên” tập trung vào một vấn đề chính là SỰ TỘI. Tác giả muốn in sâu vào độc giả cái cảm tưởng rằng quyền lực của Satan đã xâm nhập một cách tàn nhẫn vào thế gian, và rằng tất cả loài người chứ không phải chỉ riêng Ađam và Eva mà thôi đã sa ngã. Câu chuyện này nối tiếp câu chuyện khác, cái ý nghĩa của mỗi câu chuyện riêng rẽ thật là khó hiểu hoặc không thể khám phá được, tuy nhiên, cái chủ đề chung tràn ngập tất cả các câu chuyện đó là sự tội.

Trước hết có câu chuyện Cain giết Abel, rõ ràng đây là một câu chuyện về sự tội. Và có lẽ câu chuyện này mang theo một bài học đặc biệt. Một khi con người đã phạm tội đối với Thiên Chúa, thì nó bắt đầu phạm tội đối với người đồng loại. Hãy yêu mến Thiên Chúa, và bạn sẽ yêu mến người đồng loại. Hãy thù ghét Thiên Chúa thì chẳng bao lâu bạn sẽ đưa tay ra làm đổ máy người đồng loại. Tác giả của chúng ta cũng nói đến sự xuất hiện đầu tiên của hiến lễ. Nó được trình bày như là một cái gì tự nhiên đối với con người, như là kết quả của nhu cầu khẩn thiết nơi con người, để tỏ ra lòng sùng mộ của con người đối với Thiên Chúa đã tạo dựng mình.

Câu chuyện về sự tội Cain và Abel được nối tiếp bằng câu chuyện về sự tội “con trai của Thiên Chúa” và “con gái loài người” ở chương 6. Câu chuyện này gây rắc rối ít nhiều cho chúng ta, nhưng những điều chính yếu nó muốn dạy thì không phải là khó nhận thấy. Một lần nữa, nó là một câu chuyện về sự tội, như ở câu 3 có nói về sự tội đã thâu ngắn lại – khoảng thời gian sống của con người. Cũng rõ ràng không kém, ở câu 5 nó xác nhận rằng “sự dữ của loài người đã ra nhiều trên mặt đất, suy tính chúng có nặn ra được gì thì cũng chỉ là độc dữ suốt ngày. Có lẽ câu chuyện này có ý dạy chúng ta một chân lý căn bản khác. “Con trai của Thiên Chúa” chắc là tiêu biểu cho sự thiện, và “con gái của loài người” thì tiêu biểu cho sự ác. Thế giới theo như câu chuyện, là một sự phối hợp giữa thiện và ác. Cả hai lẫn lộn với nhau một cách vô vọng. (Khoa học hạt nhân), có lẽ chúng ta nói được như thế, có thể làm cho một miền hoang vu hóa thành vườn hoa quả, và nó cũng có thể làm ngược lại một cách dễ dàng.

Câu chuyện thứ 3 là câu chuyện lụt hồng thủy (6,5-9, 17). Ở đây, tác giả nhấn mạnh phản ứng của Thiên Chúa đối với sự tội, nhấn mạnh việc Ngài dùng hành động để chống đối hoàn toàn cái lực duy nhất trên thế giới này đã cả dám đứng lên và tuyên bố “Tôi không tùng phục”. Đó không phải là câu chuyện của một vị chúa tể độc ác muốn giáng họa xuống cho một thế giới vô phương tự vệ, nhưng nói đúng hơn, đó là một câu chuyện cảm động, viết bằng từ ngữ của nhân loại, về một vị Thiên Chúa đầy tình thương, trái tim Ngài thấy đau nhói trước cái cảnh xấu xa mà con người tội lỗi đã dựa vào sự đẹp đẽ của tạo vật. Câu chuyện về trận lụt hồng thủy đã được phổ biến đến nỗi trong văn chương ngày xưa người ta cho trận lụt lạ thường đã tàn phá cả vùng Mêsôpô Tamia là một biến cố lịch sử. Một vài chứng tích trong môn khảo cổ học càng làm tăng thêm sự ước đoán này. Qua câu chuyện này, tác giả muốn nói với chúng ta rằng sự tội đã lan tràn nhanh chóng đến nỗi cần phải có nước lụt mới tấy xóa sạch những vết nhơ đen tối của nó.

Tuy nhiên đó là một điều sai lầm nếu chúng ta bỏ qua điều giáo huấn đầy an ủi này: mặc dù nhấn mạnh sự tội, câu chuyện Cựu Ước này cũng nhắc nhở chúng ta nên luôn luôn nhớ rằng Thiên Chúa vẫn hằng quan tâm một cách yêu thương đến con người, tạo vật đã được dựng nên rập theo hình ảnh Ngài và giống Ngài. Lòng từ bi của Thiên Chúa như là sợi dây buộc con người với Thiên Chúa. Chúng ta được dạy về điểm này vì trong đoạn kể lại sự sa ngã có nói đến sự giao tranh mà phần thắng lợi sẽ về phía dòng giống người đàn bà. Chúng ta cũng được dạy về điều này một lần nữa khi Thiên Chúa bằng lòng về Abel ở 4, 5 và về Henoch ở 5,22-24. Ngay Cain cũng được sự quan phòng của Thiên Chúa gìn giữ. Cái dấu nơi Cain không phải là một sự chúc dữ, song là biểu hiệu sự giữ gìn của Thiên Chúa. Sau hết, câu chuyện lụt hồng thủy cũng là câu chuyện nói về Noê và gia đình của ông được ân huệ đặc biệt trước mặt Thiên Chúa. Câu chuyện lời giao ước ở trang 9 quả thật là 1 lời hứa với độc giả những ngày tươi sáng sắp đến.

Sự tội cũng được nhấn mạnh rõ ràng trong chương 11 nói về thápBabel. Sự kiêu ngạo là thằng đểu trong câu chuyện này. Mục đích của câu truyện là mô tả hậu quả của sự tội. Do tội mà nảy sinh ra sự bất hòa và hỗn loạn giữa loài người. Cái luân lý trong câu chuyện không còn xa lạ gì đối với chúng ta, những kẻ đang sống trong thời đại mà sự hòa hợp mong manh giữa các quốc gia được tổ chức trong tòa nhà Liên Hiệp Quốc. Ở đó cái điều đe dọa sự hợp nhất và hòa đồng phải chăng chính là do sự kiêu ngạo ở phạm vi quốc gia và do sự không quan tâm đến Thiên Chúa và giới luật của Ngài?

Cuối cùng, sự hiện diện của tội lỗi được biểu hiệu bằng những bảng liệt kê tuổi tác các tổ phụ ở 5, 1; 6, 3 và 11,10-26. Một vài con số có lẽ đã bị sai lầm khi lưu sao lại văn bản, nhưng theo cái mẫu tổng quát thì tuổi thọ giảm dần từ đầu đến cuối bảng thống kê. Đây là một kỹ thuật khác để nói lên rằng sự tội mỗi ngày một lan tràn và nó là nguyên nhân cơ bản của sự chết. Sự suy giảm của tuổi thọ là 1 dấu hiệu chỉ sự gia tăng của sự tội.

Lúc đọc xong những câu chuyện này, chúng ta có cảm tưởng rằng sự tội đã gia tăng bằng những bước nhảy vọt, và do cái lực khủng khiếp phi thường này mà sự con người cần thiết ơn cứu độ cũng gia tăng từng phút. Đó chính là cái ấn tượng mà tác giả muốn gây nên. Chính cái nền đen tối này theo dụng ý tác giả, sẽ càng làm nổi bật khuôn mặt sáng chói của Abraham (Abram), người “bạn của Thiên Chúa” và là vị tổ phụ của dân Chúa chọn.

Neam M. Flanagan, CSM

Nguyên tác: Salvation History, 1964

Trích “Lịch sử Cứu độ”, tr 3-17