Tội lỗi - Trình bày về tội cho người hôm nay (4)
(tiếp theo và hết)
III. Những dấu hiệu cho biết ta có tội – Sự hàm hồ của những dấu hiệu đó
Để kết thúc loạt bài tìm hiểu vắn tắt về tội, tôi muốn xem lại một số “phương cách” người Kitô hữu có thể dùng để biết tổng quát mình có cần được Chúa thứ tha vì hành vi này hành vi nọ không, nghĩa là mình đã phạm tội hay chưa. Chúng ta sẽ nhìn lại năm tiêu chuẩn có thể được coi là những dấu hiệu cho biết tình trạng bất hòa giữa ta với Chúa. Nhưng đây cũng chính là điểm khó khăn: mỗi tiêu chuẩn ấy đều có tính cách hàm hồ tận căn bản. Vì thế mỗi Kitô hữu cần nhận thức rõ mỗi tiêu chuẩn ấy có liên hệ với tội như thế nào.
1. Dấu hiệu thứ nhất: sự quá phạm
Qua kiểu nói này tôi muốn diễn tả hành vi một người vượt quá một lệnh cấm, một quy tắc đạo đức hay một luật lệ xã hội. Tội và sự quá phạm có tương quan thế nào, điều này cũng rất khó nói. Tuy nhiên, có thể tóm tắt như sau: Tội nào cũng là một sự quá phạm, nhưng không phải sự vi phạm nào cũng là tội.
Tội nào cũng là một sự vi phạm. Quả thế, như đã thấy ở các bài trước, tội là một sự vi phạm lề luật căn bản của cuộc sống do Chúa đặt ra. Ngược lại, không phải sự vi phạm nào cũng là tội. Tại sao? Vì những lý do sau:
- Trước hết, có thể sự vi phạm của một người nào đó là do vô tình, không cố ý. Người ta sẽ nói: Sức lực đẩy người ấy vi phạm “mạnh hơn người ấy”. Lúc đó hành vi ấy chỉ là một sự yếu đuối không có tội, dấu hiệu cho biết thân phận hữu hạn của đương sự.
- Cũng có thể người ấy không biết có luật cấm đó trong lãnh vực này lãnh vực nọ, hoặc người ấy nghĩ rằng vi phạm luật luân lý này luật xã hội nọ không ảnh hưởng gì lắm tới quan hệ của họ với Chúa. Lúc đó ta gặp tình trạng mà các nhà thần học luân lý ngày xưa gọi là “vô tri không do mình”. Chẳng hạn, một thiếu niên cả đời lớn lên và được giáo dục trong môi trường Đức quốc xã đinh ninh rằng truy bắt người Do thái là điều đúng, điều tốt. Vì thế khi làm thế, dù đó là một điều rất xấu về mặt khách quan, trước mặt Chúa vẫn không phải là tội vì anh ta không biết mình đang làm điều xấu, do điều kiện xã hội chi phối. Một thí dụ khác: ngày nay nhiều người gian lận thuế khi bị kiểm tra hay khi làm ăn buôn bán không ý thức rằng đó là một điều xấu. Trong những trường hợp đó, quả thật có một điều xấu khách quan đã được thực hiện, nhưng không phải là tội. Dĩ nhiên khi khẳng định nghe theo tiếng lương tâm, dù là lương tâm đã được huấn luyện sai, chẳng những không phải là tội mà còn là bổn phận, thần học không cố ý kêu mời mọi người theo chủ trương phóng túng. Vì cũng chính thần học quả quyết ta có thể phải chịu trách nhiệm về tình trạng sai lầm hay thiếu giáo dục của lương tâm, và bằng mọi cách phải luôn luôn lo sao cho lương tâm được sáng suốt như nhờ lắng nghe Lời Chúa, nhờ cộng đoàn Giáo hội và anh em.
- Cũng có thể một lệnh cấm do xã hội hay khổ đau luật Giáo hội đặt ra tự nó đã phi nhân bản. Lúc ấy vi phạm lại là dấu chứng tỏ ta tuân phục Thiên Chúa, ta yêu mến Người. Một thí dụ cho thấy rõ điều này là trường hợp Đức Giêsu vi phạm những lệnh cấm của đạo Do thái quá nghiêm nhặt về việc lao động trong ngày Sabát. Dĩ nhiên những sự vi phạm của Đức Giêsu đối với luật này không phải là tội, mà trái lại còn là dấu cho thấy tình thương Ngài dành cho con người. Cũng chính vì thế, Đức Giêsu đã phải nhắc lại luật được làm ra là cho con người, chứ con người không sinh ra để cho lề luật. Như vậy, vi phạm đối với một số lề luật của Giáo hội quá hẹp hòi hay một vài lệnh cấm của xã hội đặt ra không đúng chỗ, có thể hay thật sự là một dấu hiệu nói lên tình yêu thương. Điều đó kêu gọi chúng ta phải kiểm tra lại xem nền tảng của các tiêu chuẩn đạo đức đang có trong Giáo hội và xã hội.
- Sau cùng, có thể có trường hợp cần vi phạm một lệnh cấm để tôn trọng một lệnh cấm khác căn bản hơn. Đây là trường hợp được các nhà luân lý gọi là xung đột giữa các giá trị. Các Đức Giám mục Pháp đã đặt vấn đề như thế khi giải thích Tông huấn Humanae vitae của Đức Phaolô VI về việc điều hòa sinh sản. Quả vậy, một cặp vợ chồng thường bị đặt trước nhiều giá trị mà có bổn phận phải bảo vệ, thế nhưng không phải tất cả các giá trị đó có thể thực hiện được chung một lúc. Vì vậy phải xếp hạng các giá trị đang xung đột với nhau. Đôi khi để bảo vệ một giá trị tối quan trọng, ta đành phải vi phạm một lệnh cấm thì mới giữ được một giá trị khác. Chẳng hạn các Đức Giám mục Pháp lý luận: Cũng đúng luân lý thôi khi một cặp vợ chồng đành phải sử dụng phương pháp ngừa thai nhân tạo nếu thấy đó là phương pháp duy nhất có thể giúp họ bảo vệ sự quân bình trong nhân nhân và gia đình, vì những điều kiện tâm lý hay kinh tế của vợ chồng.
Dĩ nhiên, khi vi phạm một lệnh cấm của Giáo hội, phải đặc biệt lưu tâm thi hành trách nhiệm Kitô hữu của mình, nghĩa là thực hiện sự tự do thật của một người con Chúa. Tự do này không bao giờ có nghĩa là được phép muốn làm gì tùy ý, mà là biết quyết định trong Thánh Thần khi đứng trước tình trạng xung đột ấy. Các tiêu chuẩn để ta biết mình có trách nhiệm hay không đối với sự vi phạm đó, có thể là: đã quyết định trong bầu khí cầu nguyện, có suy nghĩ sâu xa, có tìm cách nhờ một thành phần của Giáo hội (linh mục, bạn bè hay cộng đoàn) xác nhận và sau cùng luôn giữ sự khiêm tốn tối đó, tới mức có thể cuối cùng sẵn sàng nhìn nhận là mình đã sai lầm.
Như thế, đã có vi phạm, đó là một dấu chỉ hết sức hàm hồ về tình trạng có tội hay không. Nhất là nếu biết rằng ngay từ khi còn bé ai trong chúng ta cũng ước muốn được vạn năng và vì thế, như đã nói ở chương hai, ta thường lầm lẫn rất tai hại: lầm lẫn giữa khuyết điểm và tội lỗi.
Khuyết điểm là sự vi phạm không cố ý đối với một trật tự đã được luật xã hội hay những đòi hỏi luân lý tạo ra. Chẳng chạn: ham uống rượu, thủ dâm, nói lời công kích và không kiềm chế được… Tất cả những hành vi này đều giống nhau ở chỗ không cố tình cố ý.
Có thể minh họa tình trạng ấy qua lược đồ sâu đây:
Một sự vi phạm (chẳng hạn vả mặt một người khi nóng giận) có thể là kết quả của hai thực tại: Hoặc đó là một quyết định rất tự do của tôi. Trong trường hợp này có thể gọi đó là tội. Hay ngược lại là do sự giới hạn của mình, nghĩa là do những hạn chế khiến tôi không làm chủ mình hoàn toàn được. Một số phản ứng của tôi thoát khỏi tầm kiểm soát của ý chí, chúng còn “mạnh hơn cả tôi nữa”. Trong trường hợp ấy không được gọi những sự vi phạm đó là tội, mà chỉ là khiếm khuyết.
Thật ra, ta cũng không cần đưa ra sự phân biệt phức tạp này, nếu bản thân con người không bị ám ảnh bởi ước muốn mình được vạn năng, như câu chuyện Ađam-Eva diễn tả một cách bóng bẩy qua nỗi thèm khát được ăn trái cấm.
Làm sao ước muốn vạn năng ấy có ảnh hưởng đến thái độ nhìn nhận hay từ chối mình là tội nhân? Có thể ảnh hưởng bằng hai cách, đôi khi xảy ra cùng một lúc.
Cách thứ nhất là cái lẽ ra chỉ là khiếm khuyết lại bị coi là tội lỗi. Quả thế, một số người có tâm lý khó chấp nhận mình không phải là chủ hoàn toàn của bản thân mình. Chẳng hạn như có người bảo tôi: “Cha xem, đã nhiều năm con cố gắng giữ bình tĩnh với chồng con, nhưng lần nào con cũng quay ra giận dữ gắt gỏng anh ấy. Con đúng là người vô cùng tội lỗi”. Khi giúp người ấy suy nghĩ về diễn biến thật của những phản ứng đó, tôi đã giúp chị ta ý rằng sự tự do của chị đã can thiệp rất ít vào trong những phản ứng ấy, nhưng cơn giận đó chỉ là kết quả của tình trạng bị giới hạn của chị, thay vì là kết quả của một ý muốn tội lỗi. Bấy giờ chị đáp lại: “Nếu con không lầm, thì nói như thế là cha đã bảo con hãy ý thức rằng con chưa thật sự phạm tội. Thế nhưng làm như vậy là cha đã lấy đi của con tất cả rồi!”.
A! Nếu vậy thì đương sự mặt nhiên thú nhận mình cũng tìm được một đôi điều hữu ích khi tự nhận mình có tội. Chị ta đã gián tiếp củng cố cái ước muốn mình được vạn năng và toàn quyền.
Thế nhưng bi kịch cũng có thể ngược lại. Có những người đã phạm tội một cách hoàn toàn tự do. Khi nhận thấy mình đã thích để bị vong thân hơn là chọn con đường đưa tới sự sống thật, họ cảm thấy như đang mang một “vết thương chạm đến tự ái của mình”. Họ cảm thấy bực mình, nhục nhã. Và để tránh vết thương đã làm méo mó hình ảnh đẹp đẽ họ từng có về mình, họ bèn cho rằng sở dĩ thế là vì chúng “còn mạnh hơn cả họ”, họ phủ nhận mình đã phạm tội bằng cách chỉ coi đó là những khuyết điểm.
Như vậy cần phải lưu ý đến hai bi kịch ám ảnh hết mọi người chúng ta, kẻ ít người nhiều. Nhất là khi bi kịch đó xảy ra trong mọi lãnh vực của cuộc sống, dù dưới nhiều hình thức khác nhau.
Chẳng hạn, với một số người cách thứ nhất vừa nói ở trên hoạt động rất rõ, đặc biệt trong lãnh vực tính dục: Họ thích tự nhận mình là người có tội hơn là coi mình đang có một số điểm bất bình thường. Nhưng cũng đối với chính những con người đó, trong lãnh vực đạo đức nghề nghiệp, cách ảnh hưởng thứ hai lại rõ hơn: Để che đậy sự thiếu liêm khiết hay bất công của mình, họ cho những hành vi của mình chỉ là thực hành theo “luân lý trong lãnh vực làm ăn sinh sống”.
Như đã nói khi đề cập đến khoa phân tâm học ở trên, ấn định chính xác phần trách nhiệm của mình không bao giờ là chuyện đơn giản cả. Tuy vậy, ta vẫn có thể nhận ra hành vi của mình một cách chủ yếu là biểu hiện của tình trạng bị giới hạn hay do sự tự do sai lầm của mình.
Sau cùng, lược đồ trên đây sẽ giúp ta hiểu được một số lệch lạc của thần học trong quá khứ. Quả thế, đã có một số nhà thần học quả quyết rằng tội của con người là nguồn gốc sinh ra mọi sự dữ trên thế gian, kể cả cái chết về mặt sinh vật. Theo họ, nếu không có tội thì cũng đã không có đau khổ, không có chết chóc. Còn tôi thì nghĩ rằng quy con người là nguồn gốc duy nhất của mọi sự dữ trên thế gian là đã gán cho con người một khả năng phá hoại quá lớn chỉ làm mạnh thêm cái ước vọng muốn toàn năng thôi! Trong những quan điểm thần học đó đều ngầm chứa một sự phủ nhận thân phận hữu hạn của con người. Thế mà đừng quên rằng con người hữu hạn cả trong khả năng làm điều thiện lẫn điều ác. Vì không thể đặt mình làm Thiên Chúa của điều thiện, nên thỉnh thoảng con người mới tự phong mình làm “thiên chúa” của điều ác! Khi giải thích St 2-3 (câu chuyện Ađam và Eva), chúng ta đã thấy mình không thể phủ nhận những hạn chế của mình: Câu chuyện Ađam và Eva dạy ta rằng con người không phải là Thiên Chúa mà cũng không phải là ma quỷ!
2. Dấu hiệu thứ hai: sự sai lệch
Ở đây tôi muốn hiểu sai lệch là đặt mình ở trong một tình trạng không phù hợp với một tiêu chuẩn đã được một tập thể nhân loại nào đó xưa nay hằng chấp nhận.
Tình trạng này có thể đương sự tới hai loại phản ứng:
- Một là có những tâm tình về tội lỗi. Một khi đã đưa các tiêu chuẩn xã hội vào nội tâm mình, đương sự sẽ nghĩ rằng sự sai lệch của mình nhất thiết phải là tội và đi ngược với luân lý. Thay vì ý thức sự khác biệt của mình, đôi khi là sự khác biệt không thể nào xóa được, đương sự lại có khuynh hướng cho mình là có tội và một cách nào đó tìm cách thu hút sự chăm chú, thương xót và tha thứ của người khác. Như lúc này đã nói, ngày nay vì áp lực xã hội ta thường thấy nhiều người thích coi mình là có tội hơn là cho mình bất thường.
- Tình trạng sai lệch cũng có thể đưa ta tới thái độ làm ngôn sứ giả. Đương sự cho rằng xã hội đã sai lệch chứ không phải mình và cách ứng xử của mình mới là chuẩn, còn cách ứng xử của đa số là bất thường.
Thật vậy, sai lệch và tội lỗi có liên hệ với nhau làm sao, điều này không dễ thấy. Sai lệch có thể là dấu hiệu cho biết đương sự muốn đoạn giao với Thiên Chúa: Cố tình không chịu làm con người nhiều hơn bằng cách tuân theo những tiêu chuẩn của xã hội và Giáo hội là những tiêu chuẩn có sức giải phóng ta thật sự. Tuy nhiên cũng có thể sống trong tình trạng sai lệch như là dấu chứng tỏ ta đang muốn thể hiện những giá trị căn bản của Tin Mừng (chẳng hạn những người phản đối bất bạo động). Trong trường hợp này, sai lệch sẽ trở thành lời cật vấn có tính cách ngôn sứ đối với người khác. Cuối cùng có thể trong quá trình lịch sử cá biệt của mình, sau khi đã nhận định chín chắn, đương sự nghĩ rằng mình phải sống trong tình trạng sai lệch ấy vì đó là cách duy nhất để ra khỏi một bế tắc mà các thất bại trong quá khứ hay các khó khăn tâm lý đã xô mình tới. Tình trạng sai lệch ấy dĩ nhiên không thể được nâng lên thành tiêu chuẩn. Nhưng cũng rất có thể đó không phải là một tình trạng tội lỗi một cách chủ quan (chẳng hạn tình trạng của một số người ly dị nhưng đã tái kết hôn hay của một loạn dâm đồng giới đã sống với nhau như vợ chồng). Dầu sao, để tránh đoạn giao với Thiên Chúa, muốn sống trong tình trạng sai lệch đương sự phải có ý muốn sâu xa là luôn luôn được đối thoại với cộng đoàn Giáo hội. Ngược lại, cộng đoàn phải lưu ý tạo điều kiện cho sự đối thoại đó bằng cách đừng có những phê phán quá đơn giản và thái độ xua trừ phản Tin Mừng.
3. Dấu hiệu thứ ba: đau khổ
Như ta biết, con người thường muốn tìm cho ra một kẻ chịu trách nhiệm về sự đau khổ đang dày vò mình, bởi vì thật khó chấp nhận tính phi lý của sự dữ. Do đó khi chỉ ra được chính mình là người phải trách nhiệm về nỗi đau đớn ấy, đương sự tưởng như đã nhận được hình phạt thích đáng về tội lỗi. Loại phản ứng này có thể thấy trong một đoạn Tin Mừng ai cũng biết: Câu chuyện người mù bẩm sinh (Ga 9,1-3). Các môn đệ hỏi Đức Giêsu người ấy bị mù vì tội của mình hay của cha mẹ mình. Đức Giêsu đã bác bỏ cách lập phương trình quá dễ dàng như vậy: đau khổ = hậu quả của tội đang phạm. Người cho biết không phải vì đương sự hay cha mẹ anh ta đã phạm tội.
Dầu vậy cũng có nhiều đoạn Kinh Thánh hứa hẹn an bình, vui tươi và hạnh phúc cho những ai thực hành các giới luật Tin Mừng theo gương Đức Giêsu và ngược lại đe dọa tai họa cho những ai tự làm giàu cách bất chính, những ai bóc lột người khác, những ngôn sứ giả (Lc 6, 24). Cũng thế, trong Kinh Thánh nhiều đoạn cho thấy giữa tội lỗi và các quyền lực sự dữ hay bệnh tật có liên hệ với nhau. Phải hiểu điều này thế nào? Hãy nhớ lại những gì chúng ta đã trình bày ở các trang trước. Tội là khước từ những gì giúp xây dựng con người một cách thật sự, vì ý định của Thiên Chúa là làm sao cho con người đạt được mức viên mãn, làm con người đứng thẳng, con người thành công, làm nghĩa tử đã được giải cứu. Bởi đó phạm tội luôn luôn là tự làm cho mình bớt là người, là thụt lùi xuống một cấp, có hại cho sự phát triển toàn diện của mình, là tạo ra những tình huống đau đớn trong đó con người sẽ đau đớn cảm nhận những hậu quả của sự vong thân.
Tuy nhiên, để khỏi lầm lẫn, cần phân biệt như các nhà thần học giữa sự dữ phải chịu về mặt thể lý (chẳng hạn như bị mù) và sự dữ về mặt luân lý (tội lỗi). Quả thế, theo thân phận con người, là thụ tạo, ai cũng cảm nhận những thất bại, đau khổ, quãng cách giữa dự phóng và đời sống thực tế, và cuối cùng là cái chết. Những đau khổ loại này (sự dữ phải chịu về mặt thể lý) dĩ nhiên không phải là hậu quả trực tiếp của tội, mà chỉ là hậu quả của thân phân thụ tạo thôi.
Ngược lại, hậu quả của tội chính là những tương quan xấu của con người đối với những đau khổ vừa kể, chẳng hạn biến những đau khổ ấy thành dịp để phản kháng bằng cách gièm pha phỉ báng hay sống vô thần thay vì lợi dụng đó làm cơ hội để tỏ bày đức tin và lòng khiêm nhượng. Hậu quả của tội còn là những sự dữ khác do cảnh người bóc lột người gây ra. Như G. Martelet đã nhận xét chí lý, “đó là sự dữ đã xuất hiện một cách có tổ chức và hệ thống nơi cá nhân và xã hội. Đó là sự khốn nạn của con người về mặt tinh thần, đã trở thành một cơ cấu do con người phát minh ra hay tiếp thu được, có quyền lực trên chính chúng ta dù trước đó nó là kết quả từ sự tự do của chúng ta”.
Ta đau đớn cảm nhận cái cơ cấu ấy đã làm khuynh đảo các thực tại. Nhưng lại có thêm một vấn đề đặt ra, khi con người coi cái cơ chế ấy chỉ là sự dữ “tự nhiên”, đang khi đó chính là hậu quả của tội lỗi mình, đã xuất hiện trong thế giới. Chẳng hạn, người ta coi một hậu quả xấu mà con người phải chịu trách nhiệm (như tình trạng sức khỏe của các công nhân bị chủ bóc lột hay tình trạng nghiện rượu trở nên trầm trọng là do các cơ sở sản xuất rượu chạy theo lợi nhuận một cách thiếu lành mạnh) chỉ là “kết quả của định mệnh” hoặc là đặc tính khó hiểu của tự nhiên. Ở đây một lần nữa ta lại thấy bị cám dỗ lẫn lộn giữa hai loại sự dữ: sự dữ phải chịu về mặt thể lý là hậu quả của thân phận con người hữu hạn và sự dữ về mặt luân lý hay tội lỗi là hậu quả do con người tự ý muốn bị vong thân hơn.
Như vậy, đau khổ cũng là một dấu hiệu hết sức hàm hồ cho biết có tội hay không. Đôi khi, đó có thể là dấu cho biết tập thể này cá nhân nọ đã phạm tội. Nhưng cũng có lúc đó chỉ là tiếng gọi kêu mời mỗi chúng ta nhìn nhận thân phận con người hữu hạn. Khi tiết lộ các ý định của Thiên Chúa lúc thuận lợi cũng như lúc bất lợi, các ngôn sứ đã gián tiếp giúp ta phân biệt đúng đắn đau khổ - dấu hiệu của tội lỗi và đau khổ - dấu hiệu của thân phận loài người hữu hạn, nơi con người, một “hữu thể sống để chết” như Heidegger đã nhận xét.
4. Dấu hiệu thứ tư: nội dung khách quan của hành vi
Ở đây tôi muốn nói đến “chất thể” của hành vi như ngày xưa quen gọi. Chất thể hay nội dung khách quan của hành vi là một trong những tiêu chuẩn được Truyền thống Giáo hội dựa vào để xác định mức nặng nhẹ của tội.
Thật chính xác khi coi tầm mức nặng nhẹ khách quan của hành vi là một dấu hiệu hết sức thích đáng cho biết có tội hay không và nặng nhẹ thế nào. Quả thật, nếu đương sự làm một hành vi mà về mặt khách quan rất có sức phá hoại đối với bản thân mình và người khác, đồng thời nhập cuộc vào đó với tất cả tự do, thì hầu chắc người ấy đã phạm tội nặng.
Tuy nhiên, có một vấn đề được đặt ra về việc lượng định tầm mức nặng nhẹ khách quan của hành vi. Thật vậy, sự lượng định của ta thường bị chi phối bởi những “chiến thuật” của vô thức hay bởi áp lực của các ý thức hệ chung quanh. Điều này càng đúng khi đó là hành vi trong lãnh vực tính dục hay có tính gây hấn. Chẳng hạn khi nói trong lãnh vực của đức khiết tịnh không có chất thể nào là nhẹ, tức là bảo rằng trong lãnh vực này, tội nào cũng là tội nặng, ít là về mặt khách quan. Đây đã là quan điểm của Truyền thống Giáo hội trong nhiều thế kỷ.
Thế nhưng nếu phê bình nghiêm túc hơn một chút ta sẽ thấy lý thuyết đạo đức ấy khó lòng đứng vững. Có thật những sự thỏa mãn của một thanh niên đối với những hình ảnh tưởng tượng có liên quan đến tính dục hay cả những hành vi thủ dâm của một thiếu niên là những chất thể rất nặng tội? Phải thành thật nhìn nhận ý kiến ấy rất đáng nghi ngờ. Ngược lại, thần học trong nhiều thập niên đã tạo cho người ta có cảm tưởng rằng việc nước này bóc lột nước kia trong chế độ thuộc địa không phải là một tội năng. Đúng như Đức Giêsu đã nói, luân lý Kitô giáo đã “gạn lọc con muỗi nhưng lại nuốt lạc đà” (Mt 23, 24).
Như vậy, nếu muốn “chất thể” của tội là cần chỉ dẫn tốt cho ta biết tầm mức của tội, thì trước tiên phải nghiên cứu thật sâu xa, có phê bình hẳn hoi về ý kiến ấn định “chất thể” này là nặng hay nhẹ. Muốn thực hiện việc nghiên cứu này cần phải tổng hợp các khám phá chắc chắn của khoa học nhân văn, các kết quả ổn định của khoa chú giải Kinh Thánh và những chuẩn mực bền vững của Truyền thống.
Nếu thế, ngày nay ta có nên xác định lại danh sách các tội nặng “về chất thể”, nghĩa là những hành vi khách quan nặng tội, có thể làm hỏng sâu xa sự tự do của con người không? Truyền thống đã không ngần ngại lập một danh sách phân biệt các tội đi ngược lại các nhân đức đối thần và bảy tội đầu mối. Bảng liệt kê ấy đang bị nhiều người hôm nay cười nhạo, và không phải là không có lý: Nó biểu lộ một cái nhìn sự vật hóa con người và không dựa trên những phân tích sâu xa về thực tế. Thế nhưng một cái nhìn thần học tồn tại lâu năm trong Truyền thống Giáo hội như thế không thể nào bị gạt bỏ dễ như trở bàn tay được. Nguyên việc nó tồn tại được qua nhiều thế kỷ cũng là dấu cho thấy bảng danh sách ấy đã đụng chạm thật sự được những chân lý căn bản về nhân loại và thần học. Vì thế, tôi chỉ nghiên cứu sâu xa hơn bảng danh sách các tội ấy và sau đó sẽ đưa ra nhận xét là nói chung bảng ấy vẫn rất thích đáng. Trước hết không ai phủ nhận như thế khi tìm hiểu các tội đi ngược lại ba nhân đức đối thần, vì chính Kinh Thánh cũng đã coi các tội này là nặng:
Phạm tội đối với đức tin có lẽ là nguồn gốc sâu xa nhất của mọi tội khác, vì rốt cuộc ta đã từ chối tin vào Thiên Chúa duy nhất, Thiên Chúa Tạo hóa và Cứu độ; và như thế sớm muộn gì cũng đi tới chỗ thờ ngẫu tượng. Thế mà theo Kinh Thánh tội nào cũng là một hình thức thờ ngẫu tượng.
Phạm tội đối với đức cậy là từ chối không chịu tin rằng thế giới, tha nhân và chính bản thân mình vẫn có thể có một tương lai. Là từ chối không chịu tin Thiên Chúa quyền năng có thể hoạt động trong sự yếu đuối của ta và có thể đánh đổ sự “khôn ngoan” của thế gian (1Cr 1).
Phạm tội đối với đức ái là quay về mình một cách thái quá để lo thu góp cho mình thay vì mở lòng với những người đang gặp cơn túng quẫn. Là cho thấy mình chưa tiếp đón Thiên Chúa Tình yêu, Thiên Chúa muốn con người được sống.
Có người sẽ nói: “Đồng ý đánh giá các tội lỗi phạm các nhân đức đối thần như thế còn đúng lắm. Thế nhưng các tội đầu mối thì sao? Chúng có ăn nhập gì với cách sống chúng ta ngày hôm nay không? Thưa, hoàn toàn không”. Có chắc không? Nếu để ý đến nền tảng nhân loại học của bảng danh sách các tội đầu mối, tôi nghĩ ta sẽ có thể nhận ra sự thích đáng của bảng liệt kê ấy. Bây giờ ta hãy xem từng tội một bằng cách tham khảo thêm những nghiên cứu hiện nay của khoa nhân loại học.
Hình thức vong thân chính yếu của con người, theo tôi, là cố tình nuôi dưỡng khát vọng được vạn năng. Hãy nhớ lại những gì đã đề cập khi giới thiệu sơ đồ “cái trứng” ở chương trước. Khai thác khát vọng đó là đã phạm tội kiêu ngạo mà Truyền thống Giáo hội xưa nay luôn luôn coi là tội đầu tiên trong 7 tội đầu mối.
Một hình thức khác của tội, thường thấy hiện nay, là cố tình từ chối những dị biệt, chỉ vì muốn có cái người khác có, bằng cách xoay sở một cách xấu xa như R. Girard gọi là “làm bộ như có”. Theo tôi thế là đã phạm một tội đầu mối được gọi là tội ghen ghét.
Tội thường xuất hiện nơi chúng ta khi chúng ta lạm dụng bản năng gây hấn của mình. Thật vậy, tất cả những hệ thống suy tư về đạo đức hiện nay đều cho thấy muốn sống đạo đức, trước tiên con người phải làm sao điều hòa bạo lực vì phần lớn những sự dữ trên thế giới đều do ta chấp nhận làm hay chịu những hành vi bạo lực chết người. Cứ theo đà suy tư đó ta sẽ gặp một tội đầu mối khác là tội nóng giận, tội không điều hòa được bản năng gây hấn của mình.
Xã hội chúng ta được xây dựng trên việc đua nhau săn tìm lợi nhuận và thường sẵn sàng làm hại người khác. Người ta sử dụng lao động của con người để người giàu càng giàu hơn và người nghèo càng nghèo hơn. Như vậy có quan hệ không tốt với tiền bạc là một trong những hình thức sinh ra tội lỗi nhiều nhất trong xã hội chúng ta. Truyền thống Giáo hội gọi đó là tội hà tiện.
Chúng ta đang sống trong một xã hội tiêu thụ, một xã hội thường gây cho ta cảm nghĩ rằng chỉ khi nào được thỏa mãn no nê mọi thèm khác con người mới cứu được mình và mới được hạnh phúc. Như một số người phản kháng xã hội tiêu thụ một cách gay gắt thường nói: “Đó là xã hội của thằng hề chỉ loay hoay quanh cái miệng”. Truyền thống Giáo hội xem ra rất nghi ngờ những quan hệ không tốt có liên can đến cái miệng và gọi đó là tội mê ăn uống.
Một hình thức tội lỗi khác xoay quanh việc khai thác sự khác nhau trong tính dục, đàn ông tìm cách nô lệ hóa đàn bà, con người thiếu kính trọng thân xác với phái tính. Tội này Truyền thống gọi là mê dâm dục.
Cuối cùng, có một tội mà hiện nay càng ngày ta càng thấy nhiều: Đó là để cho tình trạng tâm linh càng ngày càng khô cằn, do những khó khăn trong việc sống đức tin hiện nay, do những khủng hoảng trong việc trung thành với Chúa trước những tấn công của chủ nghĩa vô thần hiện nay, tình trạng khô cằn về tâm linh ấy đã cản trở các Kitô hữu không dám lao sâu vào cuộc chiến bênh vực Thiên Chúa. Truyền thống gọi tội này là khô khan nguội lạnh (lười biếng về tâm linh), tội thứ bảy trong bảy tội đầu mối.
Như thế, trong lịch sử nhân loại cách thế con người từ chối Thiên Chúa không có gì thay đổi lắm. Thần học Kitô giáo xưa nay luôn luôn tìm ra những điểm yếu của con người, những điểm yếu mà qua đó tội lỗi đã lọt vào thế gian. Theo tôi, dựa vào bảng danh sách bảy tội đầu mối và những tội chống lại các nhân đức đối thần như vừa trình bày lại, chúng ta có thể tìm ra một số điểm mốc khá chắn chắn để xét mình, dù đứng về mặt sư phạm, theo tôi không nên dùng mấy chữ “tội đầu mối” hay “Bảy mối tội đầu”.
5. Dấu hiệu thứ năm: lương tâm cảm thấy cắn rứt hay tâm hồn cảm thấy có tội
Một trong những dấu hiện cho biết mình có tội mà các Kitô hữu hay dựa vào là lương tâm cảm thấy cắn rứt hay tâm hồn cảm thấy có tội. Nhiều người tự nhủ: “Tôi không cảm thấy lương tâm cắn rứt, đó là dấu chứng tỏ tôi đã không làm điều chi xấu”, hay ngược lại: “Tôi cảm thấy day dứt nhiều, nếu vậy, hẳn là tôi đã phạm một tội nặng”. Những suy nghĩ ấy phản ánh cho thấy người ta đã quá đơn giản hóa vấn đề. Vì vậy mỗi Kitô hữu cần phải am tường rõ ràng giữa tội và việc cảm thấy mình có tội liên hệ với nhau thế nào. Quả thật, cảm thấy mình có tội là một tình cảm thường không cân xứng với tầm mức nặng nhẹ khách quan của các hành vi. Chẳng hạn có những hành vi về mặt khách quan chẳng đáng kể lắm, nhưng về mặt chủ quan lại có kèm theo một mặc cảm tội lỗi rất nặng, ngược lại có những hành vi rất nặng nề về mặt khách quan, nhưng ta lại chẳng cảm thấy tội lỗi gì. Lý do của những phản ứng đó đã được nêu ra trên đây. Xin nhắc lại: Cảm giác tội lỗi diễn ra trước tiên giữa tôi với bản thân mình, còn tội là một thực tại kéo tôi vào quan hệ với một Nhân vật khác, tức là Thiên Chúa. Vì thế, cần cảnh giác hai thái độ này, mà biết đâu ta đang vướng mắc một trong hai, tùy theo mỗi lãnh vực của cuộc sống; cả hai thái độ ấy đều sai lầm. Vì khuôn khổ hạn hẹp của bài nói chuyện, tôi chỉ xin lược qua hai thái độ ấy.
A. Thái độ thứ nhất: Không chịu nhìn nhận mình có tội hay phủ nhận tội lỗi
Đó là trường hợp của Đavít: Sau khi giết tướng Uria và ngủ với vợ ông là Bétsêva, Đavít vẫn không chịu nhận ra mình có tội. Đúng như Paul Ricoeur nhận xét, tội thường có khuynh hướng tự giấu giếm và vị kỷ. Ta thường nghe một người đi họp trễ nói: “Tôi đến trễ, tôi muốn giải thích… nhưng vì…”. Ngay trong câu nói này ta đã thấy hai nét chính của tội: vị kỷ (“Tôi muốn giải thích”) và giấu giếm (“nhưng vì…”). Đang khi nếu có ý thức tội lỗi thật sự, người ấy sẽ nói: “Xin vui lòng miễn thứ cho tôi vì tôi đến trễ”. Đức Giêsu đã từng cương quyết tố giác sự giấu giếm ấy khi nói: “Ánh sáng đã đến trong thế gian, nhưng con người thích bóng tối hơn ánh sáng vì các việc họ làm thì xấu xa. Ai là điều xấu thì ghét ánh sáng và không đến với ánh sáng, kẻo các việc của mình bị lộ ra” (Ga 3,19-20).
Tất cả mọi người chúng ta ít nhiều đều có khuynh hướng tìm cách phủ nhận tội của mình trong một vài lãnh vực của cuộc sống. Có rất nhiều ách để phủ nhận, tôi không thể kể ra hết ở đây. Dầu sao, Mạc khải đã vạch ra cho ta thấy tính vị kỷ của chúng ta khi tìm cách (tự phát hay cố tình) tránh né trách nhiệm tội lỗi. Mạc khải đã cho thấy tội lỗi có một tầm mức khá nặng, tầm mức ấy được biểu lộ qua nhiều nét:
a. Con người bất lực không thể tự mình rút ra khỏi tội
Đành rằng con người có thể tìm cách che đậy hay quên đi sự bất lực căn bản của mình. Nhưng Mạc khải luôn luôn nhấn mạnh rằng con người như bị tội lỗi nơi mình “trói chặt”. Chỉ cần nghe lời thánh Phaolô mô tả con người sống dưới sự kềm cặp của tội lỗi: “Điều tôi muốn thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét tôi lại làm. Điều tốt tôi muốn thì tôi không làm được, nhưng điều dữ tôi muốn tránh, tôi lại làm” (Rm 7). Con người bị nô lệ tội lỗi tới mức chỉ mình Đấng Cứu Thế là Thiên Chúa, chỉ mình Đấng Mêsia là Đức Giêsu Kitô mới có thể ban cho ta khả năng quay về lại với Tạo Hóa.
b. Tội lỗi để lại những hậu quả không thể chữa được, cả Thiên Chúa cũng không thể xóa hết được
Các giảng viên giáo lý thường phạm một sai lầm cổ điển là trình bày sự tha thứ của Thiên Chúa như một hành vi có sức tái tạo lại tình trạng nguyên vạn ban đầu đã đánh mất. Thật ra, Thiên Chúa không thể làm cho những hành vi ta đã phạm không có những hậu quả dứt khoát, vĩnh viễn. Nhưng điều Người muốn làm là trả lại cho ta một tương lai mới, dù ta đã phá vỡ tất cả nơi mình, nơi người khác và nơi xã hội.
c. Tội có tầm mức nặng là vì xúc phạm đến chính Thiên Chúa
Đây là một trong những Mạc khải ở mức cao điểm. Tội của chúng ta không phải chỉ là sự xúc phạm đến những con người, nhưng một cách nào đó là sự xúc phạm đến chính Thiên Chúa. Một số nhà thần học hiện nay tiếp tục hướng suy tư của Truyền thống đã chẳng ngần ngại khẳng định rằng, dù vẫn không quên giá trị giới hạn của phương pháp loại suy, ta vẫn có thể nói tội con người gây đau khổ cho Thiên Chúa, vì nó vi phạm tới chính kế hoạch của Thiên Chúa, một kế hoạch có mục tiêu làm sao cho con người phải là người hoàn toàn đứng thẳng trước mặt Chúa.
Như vậy, khi tìm cách không nhìn nhận tội lỗi mình đã phạm, tìm cách trốn tránh trách nhiệm thật, nhưng biết nhìn lên thánh giá Đức Kitô và chăm chú lắng nghe Lời Người, tôi sẽ nhớ lại tội luôn luôn đem lại chết chóc cho con người và đau khổ cho Thiên Chúa.
Tuy nhiên, cũng xin lưu ý có khi nhìn nhận tội lỗi lại là tiếp sức thêm cho ước muốn vạn năng của con người. Quả thế, khi biết mình có thể làm Thiên Chúa đau khổ, con người không thấy mình có quyền lực đến thế nào sao? Chính vì thế phải luôn luôn liên kết chủ đề của Truyền thống (“Thiên Chúa bị tội làm đau khổ”) với chủ đề của Kinh Thánh (“Thiên Chúa bất di bất dịch”) (G 5, 6; Gr 7, 19; Gc 1, 17). Chủ đề của Kinh Thánh nhắc cho ta nhớ rằng Thiên Chúa không bao giờ bị tội lỗi tiêu diệt, con người phải đánh đổ ảo tưởng, một ảo tưởng nảy sinh mãi nơi con người, rằng quyền lực của mình có thể ngang bằng với quyền lực của Thiên Chúa (Về vấn đề đau khổ của Thiên Chúa, x. F. VARILLON, “La souffrance de Dieu”, Le Centurion, 1975, và tài liệu của Ủy ban thần học quốc tế trong DC 16.1.1983, pp. 125-126).
B. Thái độ thứ hai: phóng đại tội của mình
Thái độ này chủ yếu là tự khinh rẻ mình, nuôi dưỡng mặc cảm về tội tới mức đánh giá mình thật thấp, mang tâm trạng hạ nhục và đay nghiến mình. Thế mà các nhà triết học vô thần cũng như các nhà tu đức đều luôn luôn lưu ý thái độ ấy là thái độ tự ái quá độ. Ai cũng biết lời Nietzsche: “Kẻ nào tự khinh rẻ mình thì sẽ tiếp tục thích thú với sự khinh rẻ ấy”. Hơn nữa, các nhà tu đức không bao giờ ngần ngại yêu cầu các Kitô hữu hãy sửa chữa mình một cách dịu dàng, vì mọi hành vi giận dữ quá đáng với mình đều là dấu cho biết đương sự đang tìm kiếm mình thứ ấy.
Ở đây một lần nữa Mạc khải giúp ta đặt mọi sự đúng vị trí của chúng.
a. Mạc khải nhắc tôi nhớ rằng Thiên Chúa yêu tôi không hề tùy thuộc vào sự nhục nhã mà tôi ép mình phải chịu. Thiên Chúa không thích nhìn con người tự hạ nhục mình, tự đánh giá thấp về mình. Ngài chỉ muốn con người khiêm tốn, nghĩa là biết bình tâm nhìn nhận sự thật của mình. Ngoài ra, Thiên Chúa muốn con người đứng thẳng như một người con sẵn sàng chịu trách nhiệm trước mặt Ngài.
b. Mạc khải cho tôi thấy tội lỗi của tôi, nhưng đồng thời cũng cho tôi thấy Thiên Chúa luôn sẵn sàng tha thứ. Tội lỗi và ơn cứu độ, hai đề tài ấy luôn đi đôi với nhau trong Kinh Thánh. Vì thế, như Paul Ricoeur hay nhấn mạnh, người Kitô hữu không tin tưởng vào tội lỗi, mà tin tưởng vào “sự tha thứ các tội lỗi”. Bởi thế, đã nhìn vào Thiên Chúa của Kinh Thánh thì không thể nào cứ giam mình trong mặc cảm tội lỗi làm hạ giá mình. Ơn tha thứ của Thiên Chúa luôn có đó, lúc nào cũng mở cửa cho tôi đến với Ngài và người khác, kể cả khi tôi cứ muốn giam mình trong nỗi dày vò hối hận.
c. Sau cùng Mạc khải cho biết rằng tôi không cần phải “trả nợ” về những lỗi lầm quá khứ của mình.
Tâm lý học cho biết đôi khi muốn “đền tội” (theo nghĩa muốn trả thứ tiền phạt nào đó cho tội đã phạm) lại gây ra những hậu quả không lành mạnh. Theo Kinh Thánh, Thiên Chúa không đòi hỏi con người đền tội theo lối đó. Thiên Chúa không đòi tôi trả một món tiền phạt, nhưng chỉ đòi tôi sống phù hợp với ơn tha thứ tôi đã được Người ban cho. Thiên Chúa muốn tôi lãnh nhận ơn tha thức như nhận một nén bạc để sinh lời, một nén bạc sẽ tạo được một niềm vui thật sâu xa.
Như thế, tất cả những gì ta suy tư về tội nay đã kết thúc bằng một suy tư về sự tha thứ của Thiên Chúa. Đó không phải là chuyện ngẫu nhiên vô tình đâu! Thật vậy tha thứ là món quà cao đẹp nhất, hoàn mỹ nhất. Làm Kitô hữu và nhận ra mình là tội nhân, chính là nhận thức rằng ngay chính khi tôi yếu đuối và hèn nhát, Chúa đã tặng tôi món quà hoàn mỹ ấy: “Từ nay không còn án phạt với những ai sống trong Đức Giêsu Kitô nữa. Vì luật của Thánh Thần, đem lại sự sống trong Đức Giêsu Kitô, đã giải thoát ngươi khỏi luật của tội lỗi và chết chóc” (Rm 8,1-2).
Paris, tháng 3/1981
Xavie Thévenot
“Les péchés, que peut-on en dire?”. Salvator 1983, tr. 40-69
Nguồn: nhipcautamgiao.net
--------------------------------------------------------------
* Bài liên quan:
Tội lỗi-Trình bày về tội cho người hôm nay (1)