Hướng dẫn mục vụ cho những người đã ly thân hay ly dị và sống chung bất hợp luật (Phần II)

[ Điểm đánh giá5/5 ]1 người đã bình chọn
Đã xem: 320 | Cập nhật lần cuối: 5/19/2021 1:20:31 PM | RSS

HƯỚNG DẪN MỤC VỤ CHO NHỮNG NGƯỜI ĐÃ LY THÂN HAY LY DỊ VÀ SỐNG CHUNG BẤT HỢP LUẬT

MỤC LỤC

I. Ý ĐỊNH CỦA THIÊN CHÚA VỀ HÔN NHÂN: MỘT NAM MỘT NỮ VÀ MÃI MÃI.

1. Mục đích của hôn nhân:

2. Đặc tính của hôn nhân: đơn nhất và trung thành mãi mãi

a. Nền tảng thần học:

b. Hệ luận

II. TỘI LỖI ĐE DỌA ĐÁNH MẤT SỰ HIỆP THÔNG

III. THÂN XÁC CON NGƯỜI VÀ HÔN NHÂN ĐƯỢC CỨU CHUỘC: THẦN HỌC VỀ THÂN XÁC

1. Ý nghĩa của thân xác và tính dục con người

a. Thân xác có tính biểu tượng

b. Thân xác có tính hôn phối

c. Thân xác con người tự do nhưng trong tình trạng sa ngã

d. Thân xác con người được cứu chuộc

2. Hệ lụy

a. Li dị cố phá vỡ một Giao ước vĩnh cửu

b. Gian dâm và sống chung: không tình yêu hoặc tình yêu không thành toàn

c. Nỗi thống khổ trong “Hôn nhân” với người đồng tính

-----*-----

2. Hệ lụy

a. Li dị cố phá vỡ một Giao ước vĩnh cửu

Giao ước là một hợp đồng hay một sự cùng cam kết trong tự do của hai bên. Toàn bộ Cựu ước xoay quanh trục Giao ước của Thiên Chúa với Dân của Ngài. Giao ước mới Thiên Chúa thiết lập với nhân loại cách vĩnh viễn nhờ sự chết của Chúa Kitô trên thập giá. Giao ước mới và vĩnh cửu này được kí kết không phải bằng mực mà bằng máu. Các bên trao đổi với nhau không bằng những hiện vật nhưng bằng những nhân vị. Thiên Chúa trao ban cho chúng ta chính sự sống của Ngài và đáp lại Ngài yêu cầu chúng ta trao hiến sự sống của chúng ta cho Ngài.

Giao ước mà Thiên Chúa kí kết với Dân Người gồm hai mặt chính yếu. Một mặt, dân tham dự vào giao ước. Trong Cựu ước, việc ấy làm bằng nhiều cách khác nhau, như: một hiến lễ dâng kính, một người đàn ông được cắt bì, một người nam và một người nữ kết ước hôn nhân,.... Trong Tân ước, Giao ước mới được thiết lập theo một thể thức dứt khoát. Đó là điều mà chúng ta gọi là Thánh Thể. Chúng ta hoàn toàn tham dự thực sự và tích cực vào Giao ước ấy. Đức Kitô ban cho chúng ta Mình và Máu Người dưới hình thức bánh và rượu, để chúng ta dự phần vào đó trong một hành động của đức tin. Mặt khác, Dân Chúa, bằng chính cách sống của mình, làm hiện diện hay hiện tại hóa Giao ước đó. Khi Môsê đón nhận từ Thiên Chúa Mười Điều Răn trên núi Sinai, ông công bố lời Chúa nói rằng, nếu dân trung thành giữ Luật Mười Điều Răn, họ sẽ trở thành dân tự do. Nói cách khác, họ sẽ giống như Thiên Chúa. Như thế, bởi tự do của mình dân Israel sẽ là một dấu chỉ sống động của chính Thiên Chúa cho các dân tộc khác. Họ sẽ là một chứng từ của sự hiện diện của Thiên Chúa trên trái đất nhờ cách sống của họ.

Cũng như thế, hôn nhân tham dự vào Giao ước mới do Đức Kitô thiết lập, và hiện tại hóa Giao ước mới này. Khi một người nam và một người nữ kết hôn với nhau, họ đón nhận các phúc lành bí tích của Giao ước mới. Thiên Chúa cho họ tham dự vào chính sự trung tín của Ngài. Họ vốn đã tham dự vào Giao ước mới khi chịu Bí tích Rửa tội xét như một cá nhân tham dự vào Thân Mình Đức Kitô, là Hội Thánh. Nay, họ tham dự vào Giao ước mới trong tư cách mới như một đôi vợ chồng, một cộng đoàn Hội thánh tại gia trong cộng đoàn Hội Thánh toàn thể.

Chúng ta nhớ lại rằng trong vườn Êđen, Ađam không tìm được cho mình một người “trợ tá tương xứng” nào, Thiên Chúa đã làm cho ông đi vào một “giấc ngủ mê” (x. St 2,21). “Giấc ngủ mê” trong tiếng Hípri có ý nói Thiên Chúa tiến hành một hành động rất nhiệm mầu và ý nghĩa. Khi Ađam thức dậy, ông thấy đã xảy ra một điều rất kì diệu. Thiên Chúa dẫn đến trước mặt ông người phụ nữ, “trợ tá tương xứng” của ông, đã được tạo dựng cách huyền nhiệm, và ông ngây ngất la lên: “Phen này, đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi!” (x. St 2,23). Đây là sáng kiến của chính Thiên Chúa. Khi ấy, và chỉ khi ấy Ađam mới hành động. Đó là lúc Thiên Chúa sáng tạo nên hôn nhân, và thiết lập nó như một giao ước. Theo một nghĩa nào đó, hôn nhân giống như một đứa con mới sinh, được tạo dựng từ hư không và không bao giờ có thể bị tiêu diệt. Hôn nhân là một tạo thành của Thiên Chúa và là một tặng phẩm bởi Ngài.

Hơn nữa, tình yêu chung thủy của vợ chồng giống như một chiếc gương soi. Khi nhìn vào chiếc gương soi hôn phối này, nghĩa là chính khi ta sống hay nhìn vào cuộc sống hôn nhân thủy chung của các đôi vợ chồng quanh ta, ta nhận ra Tình yêu trung thành của Thiên Chúa. Hôn nhân làm hiện diện trong thế giới Tình yêu trung thành của Thiên Chúa, Giao ước của Thiên Chúa.

Mỗi nhân vị, dù nam hay nữ, đều được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa, giống như Thiên Chúa. Trong tư cách đó, người ấy có thể tham dự vào chính sự sống của Thiên Chúa và làm cho Thiên Chúa hiện diện giữa trần gian. Nhưng Thiên Chúa còn muốn hơn thế nữa. Ngài còn muốn người đàn ông và người đàn bà nên một trong hôn ước, để làm một hình ảnh phản chiếu Ngài còn rõ ràng và mãnh liệt hơn.

Chính Chúa nói con người ở một mình không tốt. Ngài muốn con người sống thành cộng đoàn hiệp nhất huynh đệ, chứ không như những cá nhân sống biệt lập, như những “ốc đảo” cô lập. Vì chính Thiên Chúa là mầu nhiệm Hiệp Thông của Ba Ngôi, Tình Yêu sâu thẳm giữa Cha, Con, và Thánh Thần. Chúng ta được tạo dựng theo hình ảnh của Ngài, được gọi sống như Ngài. Như thế, khi một người nam và một người nữ kết hợp với nhau trong hôn nhân, họ trở thành một hình ảnh của Thiên Chúa rõ rệt hơn, mạnh mẽ hơn. Khi ấy đôi bạn làm cho Thiên Chúa hiện diện theo một cách thức độc đáo, cách mà khi ở một mình họ không thể làm được. Như thánh Gioan Phaolô II dạy rằng «con người trở nên hình ảnh của Thiên Chúa không chủ yếu tại yếu tố đơn độc cho bằng là ở tại sự hiệp thông»[35].

Như vậy, hôn nhân là một giao ước, vừa tham dự vào chính đời sống của Thiên Chúa vừa làm cho Chúa hiện diện trên trần gian. Một hôn nhân, cách chính xác, được tạo nên theo cách thức mô tả trong sách Sáng thế, cần đến hai hành động. Thứ nhất, hai người nam và nữ cam kết sống trung thành với nhau đến trọn đời, đến khi một trong hai người qua đời. Kế đến, qua quan hệ tính dục của vợ chồng hôn nhân ấy trở thành hoàn hợp (consummatum). Qua hai hành động khác biệt nhưng không tách biệt này sự kết hợp thành vợ chồng (“nên một xương một thịt”) bất khả phân li được hoàn tất. Giao ước hôn phối thành một thực tại.

Khi hai người nam và nữ li dị, họ đã tự ý hủy bỏ Giao ước kép đó: với Thiên Chúa trung thành giàu lòng thương xót, và với nhau.

b. Gian dâm và sống chung: không tình yêu hoặc tình yêu không thành toàn

Con người được tạo dựng cho tình yêu. Thân xác họ là dành cho «sự hợp hôn», và đó là lí do tại sao một người đàn ông và một người đàn bà có thể trở thành «một xương một thịt».

Tính dục nhân bản không chỉ thuộc thế giới vật lí hay sinh lí, nó còn hơn thế nữa thuộc về thế giới biểu tượng và thế giới của tình yêu. Tính dục không phải là một trò chơi giải trí. Người ta cũng không thể giản lược tính dục chỉ còn như là một hoạt động thử nghiệm. Người ta không thể «thử lửa» tình dục như thử nghiệm một chiếc xe hơi. Không thể lao mình vào thực nghiệm một mối quan hệ để xem thử nó «chạy» tốt hay không. Tính dục còn hơn thế nhiều. Nó «hoàn hợp» một mối quan hệ. Nó nâng cao một quan hệ giữa một người nam và một người nữ lên một cấp độ hoàn hảo hơn. Nó thiết lập tình yêu giữa người đàn ông và người phụ nữ trên mảnh đất thiêng thánh. Tính dục là một mầu nhiệm chính vì nó mang tính «biểu tượng» và tính hôn phối. Vì thế, nó cần phải được gìn giữ và trân trọng. Nó cần những lời lẽ cam kết được công bố ra ngày thành hôn. Giao hợp tình dục trong hôn nhân dẫn đến một kinh nghiệm sâu xa của hợp nhất.

Ngược lại, khi người ta quan hệ tình dục với nhiều người trước hay ngoài hôn nhân, mỗi lần quan hệ ta để rơi lại đó một mảnh của bản thân ta. Một phần của ta cho người này, một mảnh của ta cho người nọ, và vân vân... Ta bị phân xé trong nội tâm, và cuộc sống sẽ trở nên khó khăn hơn. Đức khiết tịnh giúp bảo vệ ta khỏi mối nguy hiểm này. Dĩ nhiên, giao hợp tính dục không chỉ là hành động của tình yêu. Nó còn là một hành động của sự sống. Hành vi tính dục có ý nghĩa vừa để kết hợp tình yêu vừa mở ngỏ cho sự sống từ đó có thể hình thành. Có người đưa ra lời khuyên sau đây. Khi bạn thường xuyên gặp gỡ hẹn hò với một người bạn khác phái, hãy tự hỏi: «Có thực sự tôi muốn có con với người đàn ông (phụ nữ) này hay không? Tôi có muốn làm mẹ (cha) của đứa con của người này hay không?». Câu hỏi này rất ý nghĩa. Nó giúp ta loại trừ nhiều người mà ta cảm nhận hấp dẫn về giới tính nhưng ta lại không muốn kết hôn với người ấy.

chris Hopkins | Imagens religiosas, Filha de deus, Cristo

c. Nỗi thống khổ trong “Hôn nhân” với người đồng tính

Trong số những anh chị em đang sống xu hướng bị thu hút bởi người đồng giới (Same Sex Attraction – SSA), một số là đồng tính do mình lựa chọn, số khác thì không.[36] Những người thuộc nhóm thứ hai là những người cảm thấy mình như bị giam trong ngục tù mà không do chính mình xây dựng nên. Nghĩa là, có một nguyên nhân, về văn hóa hay gia đình, hoặc từ cả hai phía, vượt ngoài tầm kiểm soát của một con người, đặt người ấy ở trong tình thế bị hấp dẫn bởi một người khác cùng giới.

Một nhận định sau đây có thể giúp chúng ta hiểu rõ vấn đề hơn, đó là: chúng ta sinh ra đời với một giới tính có sẵn, là nam hay là nữ, nhưng đồng thời, nam tính hay nữ tính ấy của chúng ta vẫn còn ở phía trước chúng ta như một nhiệm vụ còn phải hoàn thành. Chủ thể nam giới có nhiệm vụ phải phát triển và nuôi dưỡng một nhân cách nam giới, và chủ thể nữ giới thì phải lo phát triển và nuôi dưỡng một nhân cách nữ giới. Vì nhiều lí do, nhiệm vụ này có thể gặp khó khăn chưa hoàn thành. Một khuyết điểm hay thất bại nào đó có thể cuối cùng dẫn tới có khuynh hướng chịu sự hấp dẫn đồng tính.

Dưới ánh sáng của Thần học về Thân xác, chúng ta hiểu rằng chịu sự thu hút giới tính từ người đồng giới là một hoàn cảnh đau thương. Thiên Chúa muốn đàn ông và đàn bà hấp dẫn nhau về giới tính. Họ được tạo dựng để cho nhau. Thân xác họ và con người họ bổ túc cho nhau. Họ tự thích ứng với nhau như thế nào đó để có thể «hợp nhất», nên «một xương một thịt».

Nhưng người đồng tính hay người chịu sự thu hút đồng giới (SSA) phải chịu hai nỗi thống khổ lớn. Thứ nhất, người ấy đau khổ bởi chính tình trạng mình bị hấp dẫn bởi người cùng giới. Đó thực là một nỗi đau. Trong họ có một cảm giác phân rã nào đó. Theo một nghĩa nào đó, người ấy đau đớn bởi cảm thấy như mình thiếu một căn tính cá nhân. Người ấy tự hỏi, tại sao tôi lại bị thu hút bởi người đồng giới trong khi đại đa số những người khác thì không như thế ? Thứ hai, người đồng tính đau khổ vì biết rằng hành vi tính dục đồng giới của họ không bao giờ có thể hoàn tất sự kết hợp họ «nên một xương một thịt» được. Một quan hệ tính dục đồng giới không bao giờ có thể hoàn thành được điều đó. Có hôn phối, nghĩa là sự kiện «hai người» kết hợp nên «một xương một thịt», thực sự là khi mà hai người diện đối diện, diễn tả tình yêu của họ và hợp hoan trên thân xác. Điều đó thì lại không thể xảy ra được nơi một quan hệ đồng tính. Hai người đàn ông, hay hai người đàn bà không thể đối diện với nhau, kết hợp với nhau và nên «một xương một thịt» được, vì các bộ phận sinh dục của họ không làm được chuyện đó. Đó là một dữ kiện cốt yếu, bởi lẽ, như chúng ta đã thấy, thân xác có tính «biểu tượng». Thân xác kết hợp chúng ta cả về mặt thể lí lẫn tâm linh: kết hợp thân xác diễn tả sự hiệp thông bên trong của các ngã vị.

Vì thế Hội thánh dạy rằng[37] sự nghiêng chiều về đồng tính luyến ái là «vô trật tự cách khách quan» và những hành vi đồng tính là tội lỗi. Hội thánh cũng lưu ý rằng đối với phần lớn những người bị sự thu hút đồng giới sự nghiêng chiều này là “một thử thách”. Những anh chị em này, cũng như mọi người bình thường khác, phải sống khiết tịnh phù hợp biết kiêng khem các hành vi tính dục đồng giới, và nhờ các nhân đức giúp tự chủ dạy cho họ sống sự tự do nội tâm. Hơn nữa, Hội thánh còn khẳng định rõ ràng rằng họ “phải được đón nhận với sự tôn trọng, thông cảm và tế nhị”.

Tiểu sử Đức Cha Louis Nguyễn Anh Tuấn | Công Giáo 24h


Trích Tập san Hiệp Thông / HĐGM VN, Số 95 (Tháng 7 & 8 năm 2016)

Giám mục Luy Nguyễn Anh Tuấn

Nguồn: hdgmvietnam.com

----------------------

THƯ MỤC

1. Giovanni Paolo II, Uomo e Donna lo creò, Città Nuova Editrice, Libreria Editrice Vaticana, Ed. V, 2001.

2. Percy, A., La théologie du corps décomplexée, Ed. Emmanuel, Paris 2007.

3. Harvey, J. E., OSFS, Homosexuality and The Catholic Church, Ascension Press, Philipino Edition, 2007

4. Fitzgibbons, R., «The origins and healing of homosexual attractions and behaviors», 2nd Pan American Conference on Family and Education, Toronto, Ontario, tháng 5 . 1996. X. https://www.catholiceducation.org/en/marriage-and-family/sexuality/origin-and-healing-of-homosexual-attractions-and-behaviors.html

5. Giovanni Cereti, Divorziati risposati: un nuovo inizio è possibile?, Cittadella Editrice, Assisi 2014


[35] Gioan-Phaolô II, Tiếp kiến chung ngày 14.11.1979.

[36] R. Fitzgibbons, «The origins and healing of homosexual attractions and behaviors», 2nd Pan American Conference on Family and Education, Toronto, Ontario, tháng 5 . 1996.

[37] GLHTCG 2357-2358.