Suy niệm bài đọc 1 - CN V Mùa Chay - Thiên Chúa không bỏ rơi con người

[ Điểm đánh giá5/5 ]1 người đã bình chọn
Đã xem: 223 | Cập nhật lần cuối: 5/21/2023 8:10:49 AM | RSS

BÀI ĐC 1 CHÚA NHT V MC Năm A - Ed 37, 12-14

"Ta s cho các ngươi Thn Trí ca Ta, và các ngươi s đưc sng"

Trích sách tiên tri Ê-dê-ki-en

12 Chính vì thế, ngươi hãy tuyên sấm, hãy nói với chúng: ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán như sau: Hỡi dân Ta, này chính Ta mở huyệt cho các ngươi, Ta sẽ đưa các ngươi lên khỏi huyệt và đem các ngươi về đất Ít-ra-en.

13 Các ngươi s nhn biết chính Ta là ĐC CHÚA, khi Ta m huyt cho các ngươi và đưa các ngươi lên khi huyt, hi dân Ta.

14 Ta s đt thn khí ca Ta vào trong các ngươi và các ngươi s đưc hi sinh. Ta s cho các ngươi đnh cư trên đt ca các ngươi. By gi, các ngươi s nhn biết chính Ta là ĐC CHÚA, Ta đã phán là Ta làm. Đó là sm ngôn ca ĐC CHÚA. Giu-đa và Ít-ra-en thành mt vương quc thng nht

Bài này tuy rất ngắn nhưng chỉ vỏn vẹn từng ấy cũng tạo thành một thực thể. Bài được đóng khung ở đầu và cuối bài bằng hai từ tương tự nhau: câu đầu: «ĐC CHÚA là Chúa Thưng phán» và câu cuối: «Đó là sm ngôn ca ĐC CHÚA», cách đóng khung này làm nổi bật lên phần nằm trong khung. Điều được đóng khung là một lời hứa được lặp lại hai lần: lời hứa hướng về dân Chúa. Chúa nói: «Hi dân Ta». Lời hứa ấy gồm hai điểm: thứ nhất «Ta s đưa các ngươi lên khi huyt», thứ hai «đem các ngươi v đt Ítraen». Chúng ta có thể suy ra bài này được viết trong lúc dân bị lưu đày và hoàn toàn lệ thuộc Babylon.

Dân Chúa như bị triệt hạ (đúng nghĩa của nó), như chết đi và vì thế Chúa nói đến nấm huyệt: dân sẽ trỗi dậy. Họ không thể bị loại trừ hẳn, bởi vì Thiên Chúa trung tín trong lời hứa với dân tộc này qua một Giao Ước mà không có gì có thể huỷ diệt được; vì vậy, dù có thua trận mấy đi nữa, mặc cho những đổ vỡ, những thử thách, mọi người đều biết dân này sẽ tồn tại, và sẽ tìm lại đất nước vì đó là điều đã hứa. «Hi dân Ta, này chính Ta m huyt cho các ngươi, Ta s đưa các ngươi lên khi huyt và đem các ngươi v đt Ítraen.» Thực ra, những câu này không có gì đáng ngạc nhiên: lúc nào dân Ítraen cũng biết Chúa vẫn trung tín; và cụm từ: «Các ngươi s nhn biết chính Ta là ĐC CHÚA» (c.13) chính là để nói lên nhờ sự trung tín của Ngài, dân mới nhận rằng Ngài là Chúa thật.

Thế nhưng tại sao phải lặp lại hai lần? Thật ra lời hứa lần thứ hai không chỉ muốn lặp lại mà làm tăng tầm quan trọng hơn: thật vậy lời hứa ấy nói lại: «Hi dân Ta, này chính Ta m huyt cho các ngươi, Ta s đưa các ngươi lên khi huyt và đem các ngươi v đt Ítraen. Các ngươi s nhn biết chính Ta là ĐC CHÚA», và tất cả thật ra là trở về trạng thái trước kia, trước thảm hoạ bị đày sang Babylon. Nhưng trong lời hứa thứ hai này, có điều mới mẻ, chưa từng thấy: «Ta s đt thn khí ca Ta vào trong các ngươi và các ngươi s đưc hi sinh.» (c.14). Đây là Giao Ước mới được ghi tạc, lần này không trên bia đá mà trong trái tim. Hay nói cách khác, tim con người nay không còn bằng đá mà bằng thịt.

Cụm từ được lập lại trong bài: «Hi dân Ta» chứng tỏ rõ ràng hai lời hứa này loan báo một sự trỗi dậy, một sự canh tân dân tộc chứ không phải là sự phục sinh cá nhân. Tiên tri Êdêkien chưa hề dự định một điều như thế - hơn nữa không một tiên tri nào thời ấy tin vào sự phục sinh cá nhân. Bài đọc hôm nay tiếp theo bài thị kiến bất hủ về các bộ xương khô (Ed 37) và cho chúng ta giải đáp thị kiến ấy. Lúc ấy vị tiên tri nêu lên rất rõ ràng cảnh tù đày cả dân tộc chứ không phải cái chết cá nhân.

Không như mọi người tưởng, dân tộc Ítraen chỉ khám phá ra niềm tin vào sự phục sinh rất trễ sau này. Trong nhiều thế kỷ, họ quả quyết rằng những người chết sẽ đi về «Shéol», một nơi tối tăm mà không ai biết gì hơn. Ngày nay chúng ta thấy làm lạ vì là một đề tài ít ai quan tâm. Lý do là cái chết cá nhân không liên quan đến tương lai dân tộc: thế nhưng tương lai dân tộc mới là điều quan trọng. Khi có người chết người ta nói họ «đưc v sum hp vi gia tiên»(St 49, 29), nhưng không xem xét có đời sau hay không. Điều này rất thật vì có lúc họ cầu nguyện với Chúa xin được sống với luận cứ này, «Chúa ơi, khi con chết con đâu còn cầu nguyện với Chúa nữa, cũng không còn ca ngợi Chúa nữa (ngụ ý nói Chúa có hơn gì đâu). Trái ngược lại, sự tồn tại của dân tộc thì chắc chắn rồi, vì Chúa đã hứa như thế. Có thể nói họ quan tâm đến hiện tại dân tộc hơn là tương lai cá nhân.

Muốn tin vào sự phục sinh cá nhân phải kết hợp hai yếu tố. Trước tiên phải quan tâm đến thân phận từng người, đó không phải trường hợp trước kia vì họ đã từng hiến tế người. Đây là một đặc thù của đạo theo Thánh Kinh, ngay từ đầu đã nghiêm cấm hiến tế người và phải nghiêm cấm tuyệt đối vì phẩm giá con người cá nhân chưa được thật sự nhìn nhận. Sự quan tâm đến thân phận cá nhân là một sự chinh phục, một tiến bộ. Yếu tố thứ hai không thể nào thiếu để nảy sinh lòng tin vào sự phục sinh: phải tin vào một Thiên Chúa không phó thác bạn cho sự chết.

Sự xác tín rằng Chúa không bỏ rơi con người không phải nhanh chóng mà có được. Nó được nảy sinh tiệm tiến theo nhịp các biến cố thực tế của lịch sử dân Chúa chọn. Trải nghiệm lịch sử Giao Ước là điều nuôi dưỡng đức tin Ítraen. Thế mà trải nghiệm Ítraen là Thiên Chúa cứu độ con người, muốn con người tự do khỏi mọi hình thức nô lệ, Ngài không ngớt can thiệp để giải thoát; một Thiên Chúa trung tín không bao giờ đổi ý. Chính niềm tin này đã hướng dẫn mọi mặc khải cho Ítraen; nó là động lực cho xác tín trên.

Cả hai yếu tố kết hợp với nhau - lòng tin vào một Thiên Chúa không ngừng giải thoát con người, mặc khải giá trị của mỗi cá nhân con người - dẫn đến lòng tin vào sự phục sinh cá nhân. Kết thúc của sự tiến triển song đôi này Thiên Chúa hiện rõ ra là đấng giải thoát cá nhân khỏi sự nô lệ khủng khiếp, vĩnh viễn là sự chết. Mặc khải này đến rất trễ trong dân tộc Do Thái, vào thời Chúa Kitô, niềm tin ấy chưa được mọi người chia sẻ, vì có câu nói về người Xađốc «Nhóm này ch trương không có s sng li» (Mc 12, 18)

Không ai cấm nghĩ rằng lời của tiên tri Êdêkien vượt hẳn tư tưởng của chính ngài một cách vô tình; Thần Khí Thiên Chúa nói qua miệng ngài và giờ đây chúng ta có thể nghĩ rằng «chính Êdêkien cũng không biết ngài nói tiên tri chính xác chng nào»

Tác gi: Marie-Noëlle Thabut
Nguồn: L’ intelligence des Ecritures, Socéval Editions

Dịch giả: E. Máccô Lương Huỳnh Ngân