Đức hiếu đã động lòng Trời (2)
(tiếp theo)
Những đứa con hoang trở về nhà Cha
Năm 1965, một bước ngoặt lớn đánh dấu sự chuyển mình của Giáo hội Công giáo, đặc biệt về mặt tôn giáo và văn hóa của các dân tộc Á châu. Một huấn thị của Tòa Thánh mang tên Plane compertum ban hành từ năm 1939 tại Trung Hoa nay được áp dụng tại Việt Nam ngày 14.06.1965. Văn kiện này cho phép người Công giáo Việt Nam cử hành các nghi lễ thờ kính tổ tiên theo truyền thống hiếu thảo của dân tộc. Một bức màn sắt sụp đổ! Tuyệt vời hơn nữa, Công đồng Vatican II (1962 – 1965) với Tuyên ngôn nổi tiếng “Thời đại chúng ta” khích lệ tín hữu Công giáo đón nhận những giá trị hướng về Chân, Thiện, Mỹ trong các Tôn giáo khác bằng con đường đối thoại cùng nhau cộng tác nhiệt thành vì lợi ích của đồng bào, đồng loại.
Ngày 26.06.1966, chúng tôi hân hoan tái ngộ tại gia đình ở An Cựu – Huế, Đoàn con “hoang đàng” nay trở về với người cha nhân hậu đã nhiều năm anh dũng chịu đựng trong thinh lặng cảnh tách biệt và cô đơn. Đối với ông cụ, hôm nay là một cuộc “cải tử hoàn sinh” của các con quay về với cội nguồn gia tộc. Trong lời mở đầu buổi lễ, Ba tôi nói lên niềm tri ân đối với Giáo hội Công giáo đã nhận chân giá trị truyền thống hiếu thảo của dân tộc Đông Á và Việt Nam. Sau đây là những lời chúng tôi ghi lòng tạc dạ: “Từ nay, Kitô giáo không còn xa cách bao xa với nền đạo lý Đông Phương – nếu sự hội nhập việc thờ kính tổ tiên này được hiểu rõ và áp dụng ở nhiều nơi trên mảnh đất Á châu, thì Tây phương và Đông phương sẽ xích lại gần nhau và nhiều gia đình trí thức cũng như bình dân sẽ gần gũi với Kitô giáo hơn“.
Trước mắt chúng tôi, ở gian chính của một từ đường bé nhỏ nhưng được sắp xếp trang trọng và cung kính, bàn thờ được Ba chúng tôi trang trí bằng hoa quả xung quanh di ảnh của ông bà nội ở bàn thờ chính, ảnh người Mẹ thân yêu của chúng tôi ở bàn thờ bên cạnh. Mỗi chúng tôi đều thâm tín rằng những gì chúng tôi đang cử hành, đang sống, vừa chất chứa đạo hiếu của gia đình và dân tộc, vừa phát xuất từ gia đình tối thượng của Thiên Chúa Ba Ngôi, cội nguồn của mọi tình phụ mẫu ở trần thế. Qua những khoảnh khắc trầm lắng, mặc niệm, chúng tôi cảm nghiệm được một sức mạnh tổng hợp trời với đất, hữu hình với vô hình qua trung gian của Đức Giêsu, Con Thiên Chúa nhập thể và nhập thế, là người Anh Cả “Trưởng Tử của muôn loài thụ tạo“.
Đến phút trang trọng, Ba tôi chắp tay trên trán và quỳ lạy trước bàn thờ trong thinh lặng, thái độ đầy cung kính, mắt nhắm nghiền, trầm tư, như đi vào cõi vô hình mà mọi âm thanh, ngôn ngữ đều biến mất, nhường chỗ cho cuộc vận chuyển tâm linh. Cuộc giao cảm giữa hai thế giới lúc này trở nên một, trời – đất gặp nhau, vạn vật nhất thể trong tình yêu của Thiên Chúa.
Rồi đến lượt chúng tôi tiến đến bàn thờ, nhìn các bậc tiền nhân đã khuất bóng, nhất là trước di ảnh Mẹ chúng tôi, lòng chúng tôi cảm xúc bồi hồi khôn tả, vừa kết hợp với thân phụ đứng cạnh bàn thờ nhìn đàn con lần lượt cúi đầu, quỳ gối, tôi cầu nguyện trong tim: “Lạy Cha chúng con ở trên trời, cảm tạ Cha đã ban cho chúng con cha mẹ là hai mẫu tình yêu quý trọng của Cha hiện diện trong cuộc đời chúng con“. Những cử chỉ và nghi lễ hôm đó, chúng tôi không còn làm một cách máy móc, vô tư như thời xa xưa mà hôm nay trở nên sống động, mang nhiều ý nghĩa sâu xa, đượm nét linh thiêng cao cả.
Nghi lễ chấm dứt, Ba tôi gợi lại kỷ niệm của những người thân yêu đã khuất, đề cao công đức và gương mẫu của các ngài như một gia sản quý giá để lại cho con cháu qua các thế hệ. Điểm chính yếu là biết tri ân cảm tạ và quyết tâm sống xứng đáng với tiền nhân chứ không nên dừng lại ở hình thức bên ngoài mà phẩm vật dù hào nhoáng đến đâu cũng chỉ là những biểu tượng. Trong bữa cơm thân mật do chính tay Ba tôi chuẩn bị, chúng tôi được nghe tiểu sử của Ông Nội do Ba tôi ghi chép và phiên dịch từ tiếng Hán sang tiếng Việt: “Gia tài quý nhất để lại cho con cháu không phải là tiền bạc vì tiền bạc có thể đánh mất hay bị trộm cướp, không phải là nhà cao cửa rộng vì nhà cửa có thể sụp đổ khi mưa to, bão lớn hoặc do lửa cháy thiêu rụi, cũng không phải là sách vở, kinh kệ vì có thể bị mối mọt ăn, chỉ có một di sản không gì hủy hoại được là nhân đức để lại cho hậu duệ“.
Qua ngày hôm đó, chúng tôi nhận rõ hơn ý nghĩa của hai chặng đường mà gia đình chúng tôi đã trải qua. Chặng thứ nhất đầy ly tán não lòng khi “Chúa đến để phân ly” (cha con xa cách nhau vì tâm linh cách biệt), chặng thứ hai là khi thân cây được gọt tỉa để mầm nụ vươn lên đơm hoa kết trái: “Thầy đến không phải để phá hủy mà để đưa mọi sự đến thiện toàn“.
Ngày đại phúc
Nhờ những cảm nghiệm trên, Ba tôi ngày càng gần gũi, hiệp thông với các con. Chúng tôi tìm mọi dịp để chuyện trò, tâm sự, chăm sóc cụ trong tuổi già, với tất cả lòng kính yêu trìu mến. Những ngày giỗ kỵ của gia đình, chúng tôi cố gắng tụ họp nhau, cử hành nghi lễ tưởng niệm thân nhân quá cố, trong tinh thần “Uống nước nhớ nguồn“.
Tháng 3/1980 là ngày đại ân phúc cho gia đình. Thấy Ba tôi xuống sức, Linh mục Nguyễn Văn Lập đến thăm, cụ đơn sơ chân thành ngỏ lời xin cha ban phép Rửa tội, cha Lập vừa xúc động vừa ngạc nhiên và e ngại vì ngài biết thái độ thất vọng của Ba tôi trong quá trình chúng tôi lần lượt gia nhập đạo “Gia Tô“. Cha Lập tìm cách dò hỏi tâm tình của cụ già 85 tuổi, cụ trả lời: “Thưa cha, tôi muốn trở nên người Công giáo vì các con tôi rất có hiếu“. Ôi! Chữ hiếu đã động lòng trời!
Để chuẩn bị nhận Bí tích Rửa tội, Ba đã vui vẻ chọn tên thành là Phêrô (cùng tên với anh cả chúng tôi) và Maria, tên Đức Mẹ.
Ngày 12.04.1980, anh cả cùng chị em chúng tôi hoan hỉ quây quần bên cạnh vị cha già được nhận hồng ân trở về với thượng nguồn của tình Phụ tử tối cao là Cha của Chúa Giêsu và của nhân loại. Cha Lập ban Bí tích Rửa tội, người đỡ đầu là cụ Phaolô Nguyễn Hữu Xiêm. Vì cụ đang yếu nên nữ tu Maria Alexia Hồng Quỳ, con gái cụ thay mặt đỡ đầu. Buổi lễ đơn giản nhưng thật trang nghiêm. Sau lễ Rửa tội, cụ Phêrô Maria nói: “Từ nay trở đi, Ba không uống thuốc và hỏi ý kiến của bác sĩ nữa, Ba chỉ hỏi ý cha Lập và vâng theo thánh ý Chúa thôi“. Phải chăng đây là nguyện vọng thâm sâu nhất của vị tân tòng khi cảm thấy mình đã đạt đến mục tiêu tối hậu và cùng đích thiêng liêng của cuộc đời?
Ngày 08.05.1980, trong bình an thanh thản, Ba tôi từ biệt thế trần về Nhà Cha vĩnh cửu. Thánh lễ an táng được cử hành tại nhà thờ Đức Mẹ Fatima, Bình Triệu. Các Đức Giám mục Phaolô Nguyễn Văn Bình, Batôlômêô Nguyễn Sơn Lâm đồng tế cùng cha Nguyễn Huy Lịch và nhiều Linh mục. Các tu sĩ nam nữ, gia đình thân hữu vây quanh quan tài, trong bầu khí tri ân Thiên Chúa, Người Cha vĩ đại.
Anh cả chúng tôi đọc Thánh thư, và cuối lễ ngỏ lời cảm tạ Chúa:
“Thân phụ chúng con đã hoàn toàn tự nguyện xin được làm con Thiên Chúa không đầy một tháng trước khi được diện kiến Thiên Chúa Ba Ngôi. Hôm nay, trong tuần đại lễ Phục Sinh, cụ niên lão 85 tuổi trở nên “người thợ giờ thứ 25 và cũng là đứa con bé nhỏ nhất của Nước Trời“.
Trong ngày Tang lễ đại phúc này, anh em chúng tôi chỉ biết dâng lên Cha trên trời bài ca CẢM TẠ dài như dải Thiên Ngân:
“Con muốn cất cao bài ca cảm tạ,
Những lời nghẹn ngào lịm tắt trong tim
Con muốn hát cho rụng rời trăng sao,
Kết thành bài ca cảm mến,
Bài ca dài như dải thiên ngân.
Tình yêu Thiên Chúa cao vời,
Con xin dành trót cuộc đời,
Bây giờ cho đến mai sau.
Ngợi ca danh Chúa suốt đời
Hy sinh hòa thắm tình nồng
Kết thành bài ca tạ ơn”.
Như Kha
Nư tu Mai Thành, Hành trình Đức Tin-Hồng ân kỳ diệu, 2012, tr. 22-30.
-------------------------------
Bài liên quan: