Gioan Phaolô II: Nhà truyền giáo vĩ đại trong thời đại chúng ta (2)
(tiếp theo)
4. NHÀ TRUYỀN GIÁO ĐẾN VỚI MỌI TẦNG LỚP DÂN NGHÈO
Những người dân nghèo, họ nghèo về mức sống kinh tế không đầy đủ, về thiếu ánh sáng văn minh, kỹ thuật của thời đại, về sức khoẻ yếu kém, bệnh tật đủ dạng thức, vì sống trong những chế độ thiếu tự do, thiếu nhân quyền, thiếu tình thương Phúc Âm... đều được Đức Giáo hoàng Gioan-Phaolô II lưu tâm đến. Quả vậy, ngay từ năm thứ nhất triều đại Giáo hoàng, năm 1979, ngài đã thăm viếng dân nghèo thuộc vùng châu Mỹ Latinh như Mexico, Cộng hoà Dominican và Bahamas. Rồi năm 1980, ngài viếng thăm nhiều nước nghèo ở Phi châu như Zaire, Cộng hoà Congo, Kenya, Ghana, Burkina Faso và Côte d’Ivoire[1]...
Là vị Mục Tử của Giáo Hội hoàn vũ, Đức Gioan-Phaolô II không chỉ chăm lo cho đoàn chiên được giao phó cho mình mà ngài còn quan tâm đến mọi người, nhất là những người khổ đau, bệnh tật, bị loại trừ, những thân phận bé bỏng vô phương tự vệ vì xác tín rằng phẩm giá con người thật cao cả vì đã được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa và được Đức Giêsu Kitô cứu chuộc. Đức Giáo hoàng Gioan-Phaolô II chính là hình ảnh của vị Mục Tử Giêsu chí thánh như lời Chúa phán qua miệng ngôn sứ Êzêkiel: “Chính Ta sẽ chăn dắt chiên của Ta, chính Ta sẽ cho chúng nằm nghỉ. Con nào bị mất, Ta sẽ đi tìm; con nào đi lạc, Ta sẽ đưa về; con nào bị thương, Ta sẽ băng bó; con nào bệnh tật, Ta sẽ làm cho mạnh; con nào béo mập, con nào khoẻ mạnh, Ta sẽ canh chừng. Ta sẽ theo lẽ chính trực mà chăn dắt chúng” (Ed 34,15-16).
Đức Gioan-Phaolô II đã hô hào một nền “văn hoá sự sống”: phản đối phá thai, những phương pháp an tử, trợ tử và bảo vệ quyền sống của con người; cũng như ngài cổ vũ cho một nền “văn minh tình thương”: kêu gọi hoà bình, lên án chiến tranh... Ngài cũng quan tâm đặc biệt đến môi trường sống của con người, đến nền tảng của hôn nhân và gia đình, đến môi trường xã hội, đến hoạt động y tế, đến các bệnh nhân, v.v... Từ lý do đó mà ngài đã cho thành lập Hàn Lâm Viện Giáo Hoàng về Sự Sống[2], về Khoa Học Xã Hội[3], Hội Đồng Giáo Hoàng đặc trách về Gia Đình[4], về Chăm Sóc Mục Vụ Y Tế[5], và Văn Phòng Lao Động của Toà Thánh[6]. Đức Gioan-Phaolô II cũng là vị Giáo hoàng đầu tiên lập ra Ngày Quốc Tế Bệnh Nhân[7] được cử hành vào dịp lễ Đức Mẹ Lộ Đức ngày 11 tháng 02 hằng năm. Ngài nói: đây là “dịp đặc biệt để cầu nguyện và chia sẻ, để dâng những đau khổ của con người vì lợi ích cho Giáo Hội, và để nhắc nhở cho mọi người thấy nơi những anh chị em bệnh nhân của họ khuôn mặt của Chúa Kitô, Đấng đã chịu hiến tế, chịu chết và phục sinh mà đem đến ơn cứu độ cho nhân loại”[8].
5. NHÀ TRUYỀN GIÁO ĐẾN ĐỂ LẮNG NGHE VÀ ĐỐI THOẠI
Đức Giáo hoàng Gioan-Phaolô II là một con người đối thoại và lắng nghe với hết mọi lớp người, từ hàng giáo phẩm, hàng giáo sĩ, tu sĩ, giáo dân, đến các nhà lãnh đạo tôn giáo, các nguyên thủ quốc gia, các cấp ngoại giao, các ký giả... Và qua đó, ngài nói lên tiếng nói của chân lý Tin Mừng và khẳng định sứ mạng của Giáo Hội.
Là một “Nhà Truyền Giáo Vĩ Đại”, ngài đến để đối thoại và lắng nghe mọi người, ngài đã đi tông du nhiều hơn bất cứ giáo hoàng nào khác trong lịch sử. Tính tình cởi mở và thân thiện của ngài đã đưa nhiều người đến với Chúa Giêsu hoặc canh tân đức tin của họ. Ngài còn là một nhà lãnh đạo hiệp nhất, kiên cường trong mối tương giao giữa Giáo Hội Công giáo với các Giáo Hội Kitô khác, cũng như với các tôn giáo khác ngoài-Kitô. Đức Gioan-Phaolô II, ngài đã “trở nên tất cả cho mọi người, để bằng mọi cách cứu được một số người” (1Cr 9,22). Với lửa nhiệt tình không hề tắt và niềm đam mê không vơi cạn, với những khó khăn trên những nẻo hành trình, ngài vẫn luôn đến với mọi người để lắng nghe và đối thoại, để rao giảng Tin Mừng Thầy Giêsu, dù “lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện” (2Tm 4,2), dù cho sức khoẻ của ngài có cho phép hay không.
Ngày 27/10/1986, Đức Gioan-Phaolô II cũng là vị Giáo hoàng đầu tiên đã sáng kiến tổ chức Ngày gặp gỡ “liên tôn” và cầu nguyện cho Hoà Bình Thế Giới tại Assisi, nước Ý, với sự hiện diện của các lãnh đạo của các tôn giáo lớn trên thế giới[9]. Và cho đến nay vẫn được cử hành hằng năm vào ngày 04 tháng 10, lễ kính thánh Phanxicô Assisi, “Vị Thánh của Hoà Bình”.
Ngài là vị Giáo hoàng đầu tiên đã chính thức lên tiếng xin lỗi về những lỗi lầm của Giáo Hội trong quá khứ[10], là vị Giáo hoàng đầu tiên đứng ra hoà giải với Do Thái giáo[11] và với Chính Thống giáo[12]. Ngài là vị Giáo hoàng đầu tiên đến thăm một Hội đường Dothái giáo tại Rôma (13/04/1986)[13] và một Đền thờ Hồi giáo tại Syria (06/05/2001)[14].
6. NHÀ TRUYỀN GIÁO ĐẾN ĐỂ RAO GIẢNG NIỀM TIN VÀ HY VỌNG
Là Giám mục giữa các giám mục, nhiệm vụ hàng đầu của Giáo hoàng là bảo vệ Kho tàng Đức Tin của Giáo Hội, Đức Gioan-Phaolô II không những bảo toàn mà còn làm cho Đức Tin ấy ngày càng thêm sống động trong lòng các Kitô hữu, không chỉ “giữ đạo” nhưng còn phải loan báo Tin Mừng cho muôn dân. Ngài đã chu toàn nhiệm vụ giáo huấn của mình trước hết bằng những lời dạy qua các bài giảng trong thánh lễ, những bài giáo lý, những phát biểu quan trọng vào dịp này dịp kia chẳng hạn; bên cạnh đó là bằng chữ viết qua đủ loại các văn kiện: Thông điệp, Tông huấn, Tông hiến, Tông thư, Tự sắc cùng hàng trăm Sứ điệp và Thư tín khác[15].
Khi còn là Hồng y, ngoài việc tham dự vào Công đồng chung Vaticanô II, ngài còn có những đóng góp quan trọng cho việc soạn thảo Hiến chế Gaudium et Spes (Vui Mừng và Hy Vọng). Thật vậy, Hiến chế này đã bắt đầu bằng những lời: “Vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của con người ngày nay, nhất là của người nghèo và những ai đau khổ, cũng là vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của các môn đệ Chuá Kitô” (GS 1). Và đó cũng chính là đối tượng của lời cầu nguyện của Giáo hoàng[16]. Hơn thế nữa, trong những lời giảng dạy và những văn kiện giáo huấn của mình, Đức Gioan-Phaolô II luôn rao giảng cho con người ngày nay về niềm tin và niềm hy vọng vào Đức Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất và là Cứu Chúa của nhân loại. Đứng trước thềm của ngàn năm mới, ngài đã mời gọi tất cả chúng ta hãy cùng ngài “hát lên bài ca Te Deum tụng ca Thiên Chúa và tạ ơn Người. Những đôi mắt hướng về Đức Kitô sẽ được nâng đỡ nhờ niềm hy vọng không bao giờ thất vọng, chúng ta hãy cùng nhau bước đi trên những nẻo đường của thiên niên kỷ mới: ‘Hãy đứng dậy! Chúng ta đi!’ (Mc 14,42)”[17].
Tóm lại, chúng ta có thể nói được rằng Đức Giáo hoàng Gioan-Phaolô II luôn là người canh giữ Đức Tin, người gieo niềm Hy Vọng và là người rao truyền Tình Thương của Thiên Chúa. Ngài mời gọi: “Hãy bước vào niềm Hy Vọng! Hãy bước vào niềm Hy Vọng duy nhất, là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, Người sẽ không bao giờ làm bạn thất vọng!”.
7. NHÀ TRUYỀN GIÁO NÊU BẬT ĐỜI SỐNG QUÂN BÌNH: HOẠT ĐỘNG VÀ CẦU NGUYỆN
Như đã nói trên đây, khi còn là một sinh viên, ngoài những hoạt động nghệ thuật, ngài còn làm Hội trưởng Hội cầu nguyện con Đức Mẹ. Khi là linh mục với biết bao công tác mục vụ cho các giới, ngài còn dành thời gian để hướng dẫn các bạn trẻ cầu nguyện và lắng đọng tâm hồn để hướng lòng họ về Thiên Chúa qua những buổi sinh hoạt, dã ngoại. Sau khi được Đức Hồng y Stefan Wyszynski cho biết ngài được chọn làm Giám mục Phụ tá giáo phận Kraków, ngài đã tìm đến nhà dòng Ursuline nằm bên bờ sông Vistula, tại đây, ngài đã quỳ cầu nguyện liên tục 8 giờ đồng hồ trong Nhà nguyện của dòng[18]. Và sau khi trở thành Giáo hoàng, ngày 29/10/1978, Đức Gioan-Phaolô II đã đi hành hương kính viếng Đền thờ Mentorella. Đây là một đền thờ nhỏ, gần Rôma, nằm trên một ngọn núi. Nơi đây, Đức Tân Giáo hoàng đã đưa ra sứ điệp về tầm quan trọng của việc cầu nguyện trong đời sống Kitô giáo, ngài khẳng định: Cuộc hành hương cầu nguyện tại đền Mentorella này là “bước đi đầu tiên triều đại Giáo hoàng của tôi... Đó là để nhắc lại cho thế giới rằng cầu nguyện là sự diễn tả mối liên hệ giữa con người với Thiên Chúa hằng sống”[19].
Trong suốt cuộc đời ngài, Đức Gioan-Phaolô II đã sống thánh thiện bằng luôn gắn bó với Thiên Chúa, đặt Thiên Chúa lên trên tất cả mọi sự. Ngay từ khi còn trẻ, nhờ ảnh hưởng của mẹ, và sau là của người cha, ngài đã hướng về đời sống đạo đức thánh thiện. Ước ao nên thánh đã bén rễ trong ngài khi ngài tập được thói quen cầu nguyện và chiêm niệm trong thời gian học trường của Dòng Kín. Rồi trước khi chịu phép cắt tóc, ngài đã có ý định vào Dòng Carmel, nhưng Đức Tổng Giám mục không chấp thuận. Khi còn là đại chủng sinh, các bạn đã trêu chọc và ghi trên một tấm thiệp ghim vào cánh cửa phòng ngài: “Wojtyla vị thánh tương lai”. Suốt hơn 26 năm trên cương vị Mục Tử của Giáo Hội hoàn vũ, gia sản của ngài để lại là rất nhiều các văn kiện. Hẳn là các giáo huấn này được hình thành từ những giờ cầu nguyện liên lỉ khởi đi từ trái tim mục tử lo lắng cho đoàn chiên, một trái tim vừa nhạy cảm vừa kiên quyết[20]. Mặc dù với biết bao công việc bộn bề phải giải quyết, chương trình ngài làm việc 17 tiếng một ngày thì hết 7 tiếng dành cho cầu nguyện, chiêm niệm, dọn mình dâng lễ và cám ơn sau lễ[21].
Thật thế, Đức Ông Slawomir Oder, Cáo Thỉnh Viên của Án Phong Chân Phước và Phong Thánh cho Đức Gioan-Phaolô II, đã nói: “Những đức tính như thân thiện, lòng yêu mến sự cầu nguyện, những cử chỉ tự phát, khả năng tương giao với mọi người” không phải là những phát minh của phương tiện truyền thông, mà chính là “bản chất cốt lõi của cá tính riêng của ngài [Đức Gioan-Phaolô II]”[22]. Đức cố Giáo hoàng xem sự cầu nguyện như một “cuộc hành hương mỗi ngày” và cũng như một “mùa xuân của cuộc sống”, điều đó nối tiếp thường xuyên suốt dòng thời gian cuộc sống từ khi ngài còn là một cậu bé cho đến giây phút cuối đời. Hằng ngày, ngài có thói quen cầu nguyện từ 5-6g sáng, ngài đọc kinh trong Nhà nguyện với các nhân viên, sau đó ngài suy niệm từ 6-7g, rồi dâng Thánh lễ lúc 7g00 sáng. Ngài có lòng tôn sùng đặc biệt đối với các Thánh. Sau mỗi buổi ăn sáng, ngài tôn kính di tích của một Vị Thánh mà ngài đã lưu giữ và mỗi tối, ngài đọc Hạnh Các Thánh[23].
Nói tóm lại, Đức Gioan-Phaolô II đã sống một cuộc đời thánh thiện rất sâu sắc và hoàn hảo cả về mặt đạo đức thiêng liêng lẫn hoạt động mục vụ. Vì thế không lạ gì ngay trong Thánh lễ An táng ngài, rất đông tín hữu hiện diện đã hô vang: “GIOVANNI PAOLO! SANTO... SANTO... SANTO SUBITO!”
Với những gì vừa trình bày, bạn và tôi, chúng ta như phần nào nhận ra một Gương Mặt Nổi Bật, một Vĩ Nhân của thế giới và là một Nhà Truyền Giáo Vĩ Đại trong thời đại chúng ta: Thánh Giáo hoàng Gioan-Phaolô II. Qua đó thể hiện mầu nhiệm về sự khôn ngoan, thánh thiện, quyền năng quan phòng và tình thương vô biên của Thiên Chúa trên Giáo Hội cũng như trên toàn thể nhân loại qua Đức Gioan-Phaolô II. Ngài quả là “một Ân Ban của Thiên Chúa”[24], như lời của nhà văn Nga Soljenitsyne đã xác quyết ngay từ năm 1978. Còn tác giả Geogre Weigel, người viết rất nhiều về cuộc đời của Đức Giáo hoàng thì gọi ngài là “Chứng Nhân Tuyệt Vời của thời đại chúng ta”[25].
Giờ đây, xin mời bạn và tôi, chúng ta dâng lời tạ ơn Thiên Chúa về “Ân Ban” của Người:
THÁNH GIÁO HOÀNG GIOAN-PHAOLÔ II
Lạy Thiên Chúa Ba Ngôi Chí Thánh,
chúng con cảm tạ Chúa vì đã ban cho Giáo Hội
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II,
và đã tỏ hiện nơi Ngài lòng nhân hậu của Chúa là Cha,
vinh quang của thập giá Chúa Kitô,
và tình yêu bao la của Chúa Thánh Thần.
Chính Ngài đã hoàn toàn tin tưởng
vào tình thương vô bờ của Chúa,
và nhờ sự trợ giúp của Mẹ Maria,
Ngài đã cho chúng con một hình ảnh sống động
về Chúa Giêsu người Mục Tử nhân lành,
và đã chỉ cho chúng con thấy rằng
sự thánh thiện là tiêu chuẩn cần thiết
của đời sống đạo hằng ngày,
và là con đường dẫn đến sự hiệp thông vĩnh cửu với Chúa.
Xin ban cho chúng con ơn lành chúng con nguyện xin
nhờ lời bầu cử của Ngài và theo như lòng Chúa muốn.
Amen[26].
Ngọn đèn dầu
Bài liên quan:
Gioan Phaolô II: Nhà truyền giáo vĩ đại trong thời đại chúng ta (1)
[1] x. Lm. Phêrô Nguyễn Thanh Tùng, Đức Chân phước Giáo hoàng Gioan-Phaolô II, sđd, tr. 92 và 104.
[2] Viện Hàn Lâm Giáo Hoàng về Sự Sống (The Pontifical Academy for Life) đã được Đức Gioan-Phaolô II thành lập qua Tự sắc (Motu Proprio) Vitae Mysterium, ngày 11/02/1994.
[3] Với Tự sắc (Motu Proprio) Socialium Scientiarum, ngày 01/01/1994, Đức Gioan-Phaolô II đã cho thiết lập Viện Hàn Lâm Giáo Hoàng về Khoa Học Xã Hội (The Pontifical Academy of Social Sciences).
[4] Hội Đồng Giáo Hoàng về Gia Đình (The Pontifical Council for the Family) đã được Đức Gioan-Phaolô II thành lập qua Tự sắc (Motu Proprio) Familia a Deo Instituta, ngày 09/05/1981.
[5] Bằng Tự sắc (Motu Proprio) Dolentium Hominum, ngày 11/02/1985, Đức Gioan-Phaolô II đã cho thiết lập Hội Đồng Giáo Hoàng về Chăm Sóc Mục Vụ Y Tế (The Pontifical Council for the Health Pastoral Care).
[6] Với Tự sắc (Motu Proprio) Nel Primo Anniversario, ngày 01/01/1989, Đức Gioan-Phaolô II đã cho thành lập Văn Phòng Lao Động của Toà Thánh (ULSA - l’Ufficio del Lavoro della Sede Apostolica).
[7] Bằng Lá thư đề ngày 13/05/1992 gởi cho ĐHY Fiorenzo Angelini, Chủ tịch Hội Đồng Giáo Hoàng về Chăm Sóc Mục Vụ Y Tế lúc bấy giờ, Đức Gioan-Phaolô II đã quyết định cử hành Ngày Quốc Tế Bệnh Nhân vào ngày 11 tháng 02 hằng năm, nhằm lễ Đức Mẹ Lộ Đức.
[8] ĐGH Gioan-Phaolô II, Letter for the Institution of the World Day of the Sick, (Lá thư về việc thiết lập Ngày Quốc Tế Bệnh Nhận), n. 3: “...a special time of prayer and sharing, of offering one's suffering for the good of the Church and of reminding everyone to see in his sick brother or sister the facye of Christ who, by suffering, dying and rising, achieved the salvation of mankind”, 13/05/1992, Libreria Editrice Vaticana, http://www.vatican.va/holy_father/john_paul_ii/messages/sick/documents/hf_jp-ii_mes_21101992_world-day-of-the-sick-1993_en.html.
[9] x. Lm. Phêrô Nguyễn Thanh Tùng, Đức Chân phước Giáo hoàng Gioan-Phaolô II, sđd, tr. 182.
[10] Ngày 12/03/2000, Đức Gioan-Phaolô II đã thực hiện một hành động sám hối có tính lịch sử. Nhân danh toàn thể Giáo Hội Công giáo, ngài cầu xin Thiên Chúa thứ tha mọi tội lỗi mà Giáo Hội đã phạm trong 2000 năm qua, và đặc biệt những tội chống lại sự thật và hiệp nhất, những lầm lỗi trong liên hệ với dân tộc Do Thái, và với vấn đề nhân quyền (trích Lm. Phêrô Nguyễn Thanh Tùng, Đức Chân phước Giáo hoàng Gioan-Phaolô II, sđd, tr. 285)
[11] x. http://www.vatican.va/holy_father/john_paul_ii/travels/documents/hf_jp-ii_spe_20000326_jerusalem-prayer_en.html.
[12] x. http://www.vatican.va/holy_father/john_paul_ii/speeches/2001/documents/hf_jp-ii_spe_20010504_archbishop-athens_en.html.
[13] x. Lm. Phêrô Nguyễn Thanh Tùng, Đức Chân phước Giáo hoàng Gioan-Phaolô II, sđd, tr. 178.
[14] Như trên, tr. 289.
[15] Như trên, tr. 55; x. Lm. Guy-Marie Nguyễn Hồng Giáo, Những điểm nhấn trong giáo huấn của Đức Gioan-Phaolô II, trích Tài liệu hội thảo “Ấn tượng Gioan-Phaolô II”, sđd, tr. 13.
[16] x. ĐGH Gioan-Phaolô II, Bước qua ngưỡng cửa hy vọng, Trần Thái Đỉnh dịch, Tủ sách tư liệu Người Salêdiêng Don Bosco, 1994, tr. 43.
[17] ĐGH Gioan-Phaolô II, Hãy đứng dậy! Chúng ta đi!, Hồi ký của Đức Gioan-Phaolô II (1958-2004), Bùi Gia Minh dịch, Đức Tin và Văn Hoá thực hiện, Mai Khôi, 2004, tr. 6.
[18] x. Lm. Phêrô Nguyễn Thanh Tùng, Đức Chân phước Giáo hoàng Gioan-Phaolô II, sđd, tr. 40-41.
[19] Như trên, tr. 82.
[20] x. Gm. Giuse Vũ Duy Thống, Danh xưng Gioan-Phaolô II, trong Tài liệu hội thảo “Ấn tượng Gioan-Phaolô II”, sđd, tr. 6.
[21] x. Lm. Antôn Nguyễn Mạnh Đồng, Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II gương mẫu sống mầu nhiệm Giáo Hội mầu nhiệm, hiệp thông, sứ vụ, http://www.tinmung.net/TinTucTongHop/TinTheGioi/_2011/Thang04/DTCGioanPhaoloIIGuongMau SongGiaoHoiMauNhiem.htm.
[22] Lm. Phêrô Nguyễn Thanh Tùng, Đức Chân phước Giáo hoàng Gioan-Phaolô II, sđd, tr. 350.
[23] Như trên, tr. 351.
[24] Vương Đình Chữ, Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II, ân ban của Thiên Chúa, Công giáo & Dân tộc, Số đặc biệt Giáng Sinh 2002, tr. 67.
[25] Lm. Phêrô Nguyễn Thanh Tùng, Đức Chân phước Giáo hoàng Gioan-Phaolô II, sđd, tr. 91.
[26] Lời nguyện xin ơn nhờ sự chuyển cầu của Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II, đã được Đức Hồng y Camillo Ruini, Giám mục phụ tá của Giáo phận Rôma phê chuẩn, Libreria Editrice Vaticana, http://karol-wojtyla.org/preghiera/Loinguyen-Vietnam.pdf.