Người môn đệ đích thực của Chúa Giêsu (27): Ai xin thì cho
(Tiếp theo)
3. Ai xin thì cho
Khi dạy dỗ các tông đồ, Đức Chúa chúng ta muốn kích thích trong họ lòng mến cũng như sự từ bỏ mọi sự thế gian. Ngài nói: Nếu có ai muốn lấy áo choàng của các con, hãy để họ lấy luôn cả áo chùng.
Tất cả những ai xin, hãy cho họ, và đừng đòi lại của mình nếu có kẻ lấy đi.
Hãy cho vay mượn mà không chờ trả lại, như vậy các con sẽ trở nên con cái Đấng Tối Cao, Người xử nhân hậu với những kẻ bội bạc và những người gian ác. (x. Lc 6, 27; Mt 5, 40)
Ta thấy đấy, Đức Chúa chúng ta muốn ta tập từ bỏ mọi sự thế gian đến mức nào; đến mức ai xin thì ta cho, nếu như ta có gì còn thuộc về mình; đến mức không đòi lại những gì người ta lấy của mình. Có thể nào Ngài đòi hỏi được hơn thế về tinh thần từ bỏ tinh thần hiền lành chăng?
Các lời đó bao hàm biết mấy về sự từ bỏ, sự dịu hiền và lòng bác ái! Thực hiện các lời đó, hay đúng hơn tinh thần đó, hẳn phải làm cho tâm trí ta lìa xa hết mọi tâm tình giao động, đố kỵ, chán nản, kiện tụng nhau, bôn chôn xao xuyến, thù hận, và nó giữ tâm hồn ta an bình, tĩnh lặng!
Hầu như luôn luôn, sự dính bén của cải thế gian khiến ta từ chối bố thí cho những người xin ta.
Trong số những kẻ xin ta nên phân biệt, người nghèo, thợ thuyền làm công cho ta, những người buôn bán, vay mượn, những kẻ hay kiếm chuyện và kẻ cắp. Đức Chúa chúng ta cũng đi sâu vào các chi tiết đó và chỉ vẽ cho ta cách hành xử phải có trong hoàn cảnh như vậy, để có thể trở nên môn đệ đích thật của Đức Giêsu Kitô.
(Những kẻ nghèo tại các xứ đạo không thuộc trách nhiệm của ta). [1]
Còn đối với kẻ nghèo, chúng ta không bao giờ nên từ chối, không cho bất cứ người nghèo nào xin ta bố thí; nên cho họ tất cả những gì chúng ta có thể cho; về tiền bạc, áo quần, lương thực và cả chỗ ở nếu là cần thiết.
Đức Chúa chúng ta không đưa ra luật trừ; ai xin thì hãy cho.
Người ta thường viện cớ để từ chối không cho, nói rằng họ là những kẻ lười biếng, họ có thể lao động; rằng ta không biết họ là ai, những điều này chỉ là cái cớ để che giấu sự quyến luyến và tính keo kiệt của mình; ai xin thì hãy cho, theo khả năng của các bạn, theo những gì các bạn có; nhưng đừng từ chối ai; và nếu các bạn không có tiền bạc hoặc không thể cho cái gì, thù hãy làm phước bố thí cách thiêng liêng và nói như thánh Phêrô: Tôi không có vàng có bạc; nhưng điều gì tôi có thì tôi cho anh, và ta cho họ một vật nhỏ nào đó; một bức ảnh Chúa, một chuỗi hạt, và ta cầu nguyện Thiên Chúa cho họ.
Để thi hành huấn luyện này của Đức Chúa, mỗi nhà sẽ có một linh mục được cử ra để phân phát của bố thí. Và khi ra đường, ai nấy nên luôn luôn dằn túi vài xu để cho người nghèo mình gặp.
Còn đối với các kẻ ta mắc nợ và các người thợ làm mướn cho ta, theo luật công bằng, ta phải trả công họ khi họ đòi; còn hơn thế, trả ngay khi họ làm xong việc; Dignus est operarius mercede sua “Làm thợ thì đáng được công.” (Lc 10, 7). Bắt họ phải đợi chờ là ta có lỗi; và ta không bao giờ được mua đồ, hoặc biểu bất cứ ai làm việc, nếu ta không thể trả công ngay cho họ. Thà rằng chính ta chịu đựng và chờ đợi, hơn là liều lĩnh bắt kẻ khác chờ đợi và chịu khổ. [2]
Còn đối với những “người vay mượn ta” hãy cho vay theo khả năng và không lấy lãi. Đức Chúa nói: hãy cho vay không có lời.
Nhưng tốt hơn nên cho đứt hơn là cho vay; ta cho điều gì ta có thể cho và thế là xong, nhất lại về tiền bạc. Nói chung, những kẻ vay mượn thường khó có thể trả và lúc đó sẽ xảy tới trăm ngàn chuyện khó khăn, cực lòng.
Nếu ta trông chờ vào số tiền mình đã cho mượn để trả hoặc giải quyết một số việc nào đó, ta sẽ bị lúng túng và ta gây phiền hà cho kẻ khác, bởi đã giúp một ai đó; lắm khi một việc tốt (cho vay) mà ta làm cho tha nhân, lại trở nên nguyên nhân gây sự lạnh nhạt và xa cách, nếu chưa đến nỗi gây rắc rối và thâm độc với nhau; trường hợp bạn đòi lại tiền cho vay, mà họ không thể trả, như thường thấy – hầu như luôn luôn trường hợp ấy xảy ra, đương sự sẽ tiếp bạn cách khó chịu và đánh giá bạn không ra gì, chỉ vì bạn đòi lại quá sớm… và tai họa lại càng trầm trọng chua chát.
Khi người ta xin vay bạn 100 quan, nên cho đứt 50 hoặc 20 quan nếu có thể, và không nên đòi lại nữa; theo cách đó, ta làm một việc phước thiện, ta không bị buộc phải đòi lại ở những người nghèo không có khả năng trả; và ta giữ được tình bằng hữu và đức bác ái với tất cả mọi người. Nếu không phải tiền bạc mà chỉ là họ mượn những đồ vật dụng như nồi niêu, quần áo hay vật gì khác, thì không có bất tiện như nói trên, song chỉ nên cho mượn, với chủ tâm thực sự là cho luôn để khỏi phải buồn rầu khi người ta không trả lại.
Dẫu sao, thực hành đúng lời Chúa sẽ giúp ta luyện đức nghèo khó trọn lành. Và nếu thực sự ta muốn trở nên nghèo khó, chỉ việc cho vay mượn tất cả những ai xin vay mượn, và cho đứt tất cả những gì người ta xin, như vậy chắc chắn các bạn sẽ chẳng còn cái gì thuộc về các bạn nữa.
Còn đối với những kẻ kiếm chuyện, Đức Chúa chúng ta có nói: Nếu ai muốn đấu khẩu với các con để lấy áo choàng của con, hãy để họ lấy luôn áo chùng con.
Đến mức ấy cơ đó; chúng ta phải có tinh thần từ bỏ của cải thế gian, để tránh mọi sự kình cãi nhau với người thế gian về các sự vật trần thế.
Không có gì đi ngược lại với tinh thần nghèo khó hơn các vụ cãi lộn xảy ra hàng ngày khắp thế gian, và lắm khi, xảy ra giữa những người tín hữu đạo đức; người ta cãi nhau vì những cái không đâu, vì một tấm giẻ, một cái cẳng, một đồng xu; rồi là sinh chuyện giữ lòng thù hằn, hờn lẫy cho tới chết; phải chăng đó là điều thường xảy tới cho một số đông gia đình, cách riêng khi chia tiền chia của?
Ôi, chúng ta hãy xa tránh cái thói tính dữ tợn và keo kiệt đó; trong trường hợp ấy, hãy nhớ lại các lời này của Thầy: Nếu người ta muốn lấy của con chiếc áo choàng, hãy cho luôn cả áo chùng, thay vì cãi cọ nhau, eo xèo với nhau vì những thứ vặt vãnh, đê tiện và trần tục đến thế.
Những tâm hồn lớn lao trong đàng thiêng liêng, thường để lòng trí mình lên trên sự trần tục; lòng họ hướng về trời, lòng chúng con ở đâu thì kho tàng chúng con ở đó.
Muốn thấm nhuần cái tinh thần từ bỏ và khinh chê của cải thế gian, ta hãy tránh mọi sự tranh cãi, kình lộn về tất cả những gì liên quan đến cõi thế; không kiện tụng với ai hết. [3]
Chống lại tinh thần từ bỏ, còn những việc như tranh cãi với người buôn bán, mặc cả quá mức, đến từng đồng xu. Chẳng lẽ người thợ làm công và người bán hàng không phải kiếm sống? Bình thường, ta hãy cho những gì người ta xin, hoặc gần gần như vậy, [4] nên tin tưởng một chút vào những kẻ bán đồ hay cung ứng cho ta. Nếu ta không tin tưởng họ thì đừng có đến nhà họ. Nếu ta biết họ lừa gạt ta, đừng trở lại đó nữa; hãy luôn luôn tìm những người tử tế mà giao tiếp.
Cũng có những kẻ không bao giờ muốn giao việc cho thợ làm công, cứ phải luôn có những đệ tam nhân để điều tra, đo đạc; tại sao ta không thương lượng hiền hòa với nhau và làm cv5 với lòng thiện chí? Tất cả những sự phòng hờ đó chỉ do tại thiếu lòng tin tưởng và thiếu thiện chí; mặc kệ ai cứ muốn lừa gạt chúng ta! Họ chẳng đem được gì về thế giới bên kia đâu.
Ta hãy hành động với lòng đơn sơ và thiện chí, hãy đặt thêm tin tưởng vào người khác, cho dầu họ không xứng đáng ta đặt tin tưởng.
Thà rằng họ nói về ta: anh ta ngu, bị mình chơi cho một vố, thật đáng kiếp; hơn là họ nói thế này: anh ta keo kiệt, hay kiếm chuyện; với anh ta chẳng bao giờ là yên chuyện; anh ta có thể thắt cổ chết vì một xu.
Những cảm tưởng như vậy mà lắm khi thương thay, thiên hạ nghĩ về các người đi tu, thật là tai hại cho bậc tu trì và trái ngược với tinh thần của Đức Giêsu Kitô!
Trong mọi sự, cần nên ăn ở rộng rãi quảng đại và đừng lỗi phạm tới đức bác ái.
Có những kẻ viện cớ phải có tinh thần nghèo khó, có đức tiết kiệm, phải biết quản trị, biết làm công chuyện, biết thu xếp việc nhà, thành ra họ cứ luôn luôn mặc cả, tính toán, chạy lui chạy tới. Tất cả những cái đó chỉ là cớ để che giấu tính keo kiệt, quyến luyến của cải trần gian hoặc sợ phải thiếu thốn và mất lòng tin vào Chúa quan phòng.
Ta hãy đối xử với kẻ khác như ta muốn Thiên Chúa đối xử với ta, rộng lượng và thương xót.
Chính sự khôn ngoan của Thánh Thần ban cho các linh hồn đức khôn ngoan, để họ giữ được mức trung dung và như thế họ vừa thực hành lòng từ bỏ, vừa bảo vệ quyền lợi Thiên Chúa và người nghèo của Chúa. Còn về những kẻ trộm cắp, họ chẳng lấy được gì đáng giá ở kẻ không có của gì, cũng không thiết của gì. Đây là lời khuyên của Chúa Cứu Thế: Các con đừng đòi lại của bị kẻ khác lấy, lời khuyên đó giúp ta tránh các vụ kiện cáo, hằn thù, ra tòa, cãi cọ, nghi ngờ bất công, xét đoán hàm hồ; nó giúp ta giữ được sự bình an trong tâm hồn và luyện nhân đức hiền lành, đức bác ái, từ bỏ ngay cả khi người ta lấy tiền bạc của mình. Nhờ vậy, ta tránh được những áy náy xao xuyến, tránh những xa xỉ vô ích, mất thì giờ, nói dối nói trá, vì kẻ ăn cắp chẳng bao giờ thú nhận cả.
Lỡ có ai lấy của ta cái gì, hãy nghĩ rằng họ lấy như vậy là vì nhu cầu, họ cần hơn ta; họ không dám xin ta, và Thiên Chúa cũng cho phép như vậy để ép buộc ta luyện tập lòng từ bỏ và đức bác ái.
Tất cả đều mưu ích cho kẻ công chính.
Nếu khám phá được ai là kẻ cắp, nên cho họ điều họ ăn cắp nếu có thể được và nhất là nếu họ không thể trả lại và nói với anh ta giá anh xin điều ấy với mình có lẽ tốt hơn và mình có thể tìm cách trừng phạt anh nhưng vì lòng yêu mến Thiên Chúa và phần rỗi linh hồn anh, mình tha thứ cho anh và tặng anh luôn món đồ đó để anh ta khỏi bị mất linh hồn vì một món đồ.
Nhờ làm vậy, ta tránh được nhiều xáo trộn, nhiều phiền cực và lo lắng; Thiên Chúa được tôn vinh; chúng ta đã thực hiện một việc phúc đức lớn và có thể chúng ta đã cứu được anh em về cho Thiên Chúa, bởi vì tấm gương hiền lành, từ bỏ và bác ái, cải thiện các linh hồn hơn là sự bắt bớ, nghiêm khắc.
Đức Chúa chúng ta, sau khi đưa ra những nguyên tắc cư xử cao thượng ấy, ngược hẳn với các tư tưởng phàm tục của ta; Ngài còn thêm: “Nếu chúng con thực hành các điều ấy, các ngươi nên những người con của Cha các ngươi, Đấng ở trên trời, vì Người cho mặt trời mọc trên kẻ dữ và người lành, và làm mưa trên người ngay và kẻ ác.” (Mt 5, 45)
4. Đừng xen mình vào các công việc trần gian
Sứ vụ của linh mục là một sứ vụ hoàn toàn thiêng liêng.
Khi Đức Chúa chúng ta sai các sứ đồ, Ngài không ủy thác cho họ các việc trần gian như lao động, xây dựng, lo buôn bán; song Ngài sai họ đi rao giảng và chữa lành. Đó là hai sứ mạng mà Đức Giêsu Kitô trao phó cho họ: rao giảng và chữa lành. Thầy sai các con như Cha đã sai Thầy.
Các tông đồ một khi lãnh nhận giáo huấn của Đấng Cứu Thế, lại làm gương cho chúng ta về nghĩa vụ đó, như ta thấy thuật lại trong sách Công vụ Sứ đồ về việc chăm sóc người nghèo. Đây là một việc làm bắt họ dấn thân hết mình, chiếm cả thời giờ lẽ ra dành riêng cho việc thiêng liêng. Nên các sứ đồ đã cắt đặt các phó tế để lo chăm sóc người nghèo, còn chính họ thì dành riêng cho việc cầu nguyện và giảng dạy, bởi đây mới là nhiệm vụ duy nhất và đích xác của họ, nos vero oratione et praedicationi instantes erimus. (Cv 6, 4)
Thánh Phaolô nói rõ ràng việc này trong các thư gửi Timôtê: “Đã tùng chinh, thì không ai còn dính líu việc vàn sinh nhai, hầu mong làm hài lòng người đã mộ mình.” (2 Tm 2, 4). [5] Vậy ta chẳng nên dính dấp vào các công việc thế tục.
Nghĩa là hãy bỏ sang một bên tất cả những lo lắng về của cải, đất đai, hoa màu, dịch vụ, buôn bán, thương lượng tất cả những gì có tính thương mại, hoặc làm để kiếm tiền bạc; tất cả những gì đòi phải giao dịch với các doanh gia; hãy để các sự đó cho giáo dân: người linh mục không nên đụng ngón tay mình vào đó. [6]
Cần vận dụng các người giáo dân giỏi trong những gì liên quan tới các công việc trần thế. Để tuân theo đúng tinh thần Tin Mừng nêu trên, chúng ta không được thành lập những nhà hoặc những xưởng cung ứng, [7] nơi đó chỉ lo làm những việc tay chân; vị linh mục đứng đầu các nhà gia công đó, buộc phải lo lắng đủ mọi thứ chuyện, như xưởng mộc, xưởng sắt, đóng giày, bán hàng, mua hàng, lo giấy tờ, giao dịch với các nhà kinh doanh, sở hữu những cửa hàng, kho lẫm; người ta nói, đó là một ông lái buôn, khi họ vào phòng hoặc vào nhà các giám đốc ở đó.
Mục đích của chúng ta hoàn toàn thiêng liêng. Và chúng ta chỉ quy tụ các trẻ nhỏ hay người lớn để dạy dỗ họ mà thôi, dạy họ lẽ đạo, chứ không phải để bắt họ làm việc.
Không ai nói gì khi một đứa trẻ thuộc gia đình tử tế, hay cả những người thợ bình thường sống ba năm, bốn năm, mười năm tại trường hay trong các ký túc xá mà không lao động gì cả; chỉ có lo học hành, hay được giáo dục. Nhưng người ta sẽ trách cứ chúng ta về việc giữ trẻ em nghèo năm tháng để đào tạo chúng biết đời sống Kitô giáo, dạy chúng các bổn phận để tuân giữ, tuy dầu không bắt chúng lao động. [8] Kẻ nào hiểu biết ít về sự quan trọng của giáo dục và của việc học hành, dạy dỗ, mới trách móc cái thời gian các em sống mà không lao động… một thời gian chính ngay chúng ta cũng không làm cho đủ.
Tuy nhiên ta không bác bỏ một công việc nhỏ nào đó làm chốc lát trong ngày, công việc lao động có ích… ích cho nhà, ích về mặt tinh thần, có mục đích giúp thân xác hoạt động và tập luyện họ biết tháo vát, tỉ như may vá, dọn nấu ăn, lau chùi, rửa ráy, làm chuỗi hạt, cuốc một miếng vườn nhỏ, v.v… chúng ta không có đầy tớ và chính mình phải làm lấy công việc nhà, tỉ như việc: làm mộc, làm nề, trát thạch cao, quét tước, rửa ráy, vá may; nhưng chúng ta khước từ mọi thứ nghề: xưởng máy, xưởng thợ, đi lao động ở ngoài, tất cả những công việc có mùi vị kinh doanh thương mại, làm cố ý kiếm tiền. Đây là lãnh vực riêng của các giáo dân biết lo, chứ không phải của linh mục.
Cũng vì muốn theo tinh thần vừa khó nghèo, vừa xa lánh mọi sự có mùi vị trần tục, mà chúng ta sẽ không sở hữu đất đai, tài sản, nhà đất, ngoài những căn nhà mà chúng ta đang ở.
Chúng ta phải làm sao chỉ có cái vừa đủ cần thiết cho vấn đề nhà ở: nhà, sân và vườn thôi, để khỏi phải chăm sóc về mùa màng, về nông trại, thợ thuyền, đầy tớ hoặc tá điền. Tất cả những điều đó luôn luôn kéo theo nhiều bất tiện và xốn xáng, nghịch lại với đức khó nghèo theo Tin Mừng; chúng cũng dìm chúng ta chìm ngập trong những điều phiền phức cần phải tránh xa.
Nếu Thiên Chúa tốt lành muốn gửi tài sản đến cho các xưởng cung ứng của chúng ta, cho các trường học và công trình phúc thiện, ta sẽ cắt đặt những người cha hoặc người mẹ, phần đời để sở hữu tài sản đó; họ sẽ lấy danh họ làm cho tăng lợi; chính họ sẽ điều khiển, quản lý chúng và trao thu nhập cho cha bề trên cả, ông này tự mình có bổn phận phân phối cho các công cuộc này nọ, mà các người kia không cần đụng chạm gì tới việc sử dụng các khoản thu nhập. [9]
Mọi việc đó phải được thi hành dưới tổng quyền các bề trên Giáo hội của Tu hội.
Cần phân biệt công việc làm vì đức khiêm nhường, đức vâng lời, để kiếm sống, như thánh Phaolô đã làm với công việc có tính cách kinh doanh, làm để kiếm tiền và nó kéo theo nhiều dịch vụ phức tạp, phải giao dịch, phiền phức, hoàn toàn ngược lại các việc thuộc sứ vụ. [10] Cũng có công việc làm trong tinh thần nghèo khó, thậm chí cần thiết, hữu dụng và phù hợp với tinh thần Tin Mừng, bởi Đức Giêsu Kitô đã nói, Ngài không đến để được hầu hạ, mà để hầu hạ, người nghèo phải làm việc và làm những gì có thể làm để kiếm sống. [11]
(Còn tiếp)
Lm. Antoine Chevrier
Trích “Người môn đệ đích thực của Chúa Giêsu Kitô”, P.E.L, Lyon, 1968, tr. 438-448
------------------------------------------
Chú thích:
[1] Ý tưởng cụ thể này đến với cha Chevrier; cha ghi bên lề và không bình chú gì thêm.
[2] Ms. XII 253 – ta phạm lỗi nặng về đức nghèo khó nếu từ chối trả nợ, khất lại một ngày khác (…); phải luôn luôn trả tiền mặt mọi thứ ta mua, bởi vì người cung cấp có thể cần đến số tiền của họ; không trả liền ngay khi mình có thể trả, là giữ cho mình số tiền không thuộc về mình, là lỗi đức nghèo khó và lỗi đức bác ái, bởi vì người cung cấp có thể cần đến số tiền ấy.
[3] Ms. XII 254 – Đừng bao giờ đến tòa án vì những chuyện tương tự, trừ trường hợp tỏ tường có những sự bất công lớn đòi hỏi phải làm, và ta chẳng có quyền gì về những điều đó. Tuy nhiên, không bao giờ tự mình ra hầu tòa, luôn đợi người ta gọi mình ra.
[4] Ms. XII 253 – Muốn kiếm một vài xu mà phải đánh mất sự kính nể, lòng bác ái, bị người ta gán cho là hà tiện, tham lam ích kỷ. Hãy xử rộng rãi với người thợ làm mướn; họ đã cực nhọc lắm rồi; chẳng bao giờ người ta có thể trả được mồ hôi nước mắt của người thợ và người nghèo.
[5] Cách phiên dịch 2 Tm 2, 4 kiểu ấy, ngày nay đã bị phế bỏ. Bản văn của thánh Phaolô chỉ có quan hệ khá lỏng lẻo với chủ tâm cha Chevrier, cùng lắm là giúp thêm một ví dụ so sánh. Các nhà chú giải dịch: Trong nghành quân ngũ, không ai còn dính dấp tới công việc thuộc sinh hoạt dân sự, nếu như kẻ đó muốn làm hài lòng người đã trưng dụng họ.
[6] Trong tư tưởng cha Chevrier, đây là các dịch vụ, các tài sản người ta hiến tặng cha và cần được khai thác, làm lời để lấy thu nhập nuôi sống nhà Prado. Cha không từ khước khi cần phải xắn tay lo công việc phát triển nhà Prado. Thực tế sống đã chứng tỏ việc này (X. tr. 367).
[7] Về các xưởng cung ứng hay “Quan phòng”, xin xem tr. 352.
[8] Tại sao cái ông cha Chevrier ấy lại không chuyển nhà Prado thành tu viện – xưởng thợ? Như vậy ông sẽ có thu nhập chắc chắn, người ta cũng sẽ hoan hỉ cung ứng việc làm cho ông (… thay vì một mức lương sống khổ cực!).
[9] Ý kiến cha Chevrier trên vấn đề này, xin xem tr. 355 và LP số 22, tháng 6/1859.
[10] Ms. XII 185 – Vậy hãy bắt các thầy học La tinh biết tập luyện đức khiêm nhường, làm cho họ hiểu thế nào là làm cho cây trái mọc lên, để làm cho quần áo trắng sạch; trái lại ta phải làm hết mọi công việc nhà, vì khiêm nhường và khó khăn: lau chùi, rửa ráy, quét tường vôi trắng… thợ ngoài ít chừng nào hay chừng ấy, chính tự mình làm lấy công việc.
[11] Ms. XII 151 – Nhưng đó là vì chúng tôi muốn tự mình nêu gương, để anh em bắt chước làm việc kiếm của ăn (2 Th 3, 7). Những công việc bé mọn, có ích cho các nhà, để nêu gương về sự làm việc và về đức khiêm nhường. Chúa Giêsu đã làm việc.
* Bài liên quan:
Người môn đệ đích thực của Chúa Giêsu (1)
Người môn đệ đích thực của Chúa Giêsu (2)
Người môn đệ đích thực của Chúa Giêsu (3)
Người môn đệ đích thực của Chúa Giêsu (4)
Người môn đệ đích thực của Chúa Giêsu (5)
Người môn đệ đích thực của Chúa Giêsu (6)
Người môn đệ đích thực của Chúa Giêsu (7)
Người môn đệ đích thực của Chúa Giêsu (8)
Người môn đệ đích thực của Chúa Giêsu (9)
Người môn đệ đích thực của Chúa Giêsu (10)
Người môn đệ đích thực của Chúa Giêsu (11)
Người môn đệ đích thực của Chúa Giêsu (12)
Người môn đệ đích thực của Chúa Giêsu (13)
Người môn đệ đích thực của Chúa Giêsu (14)
Người môn đệ đích thực của Chúa Giêsu (15)
Người môn đệ đích thực của Chúa Giêsu (16)
Người môn đệ đích thực của Chúa Giêsu (17)
Người môn đệ đích thực của Chúa Giêsu (18)
Người môn đệ đích thực của Chúa Giêsu (19)
Người môn đệ đích thực của Chúa Giêsu (20)
Người môn đệ đích thực của Chúa Giêsu (21)
Người môn đệ đích thực của Chúa Giêsu (22)
Người môn đệ đích thực của Chúa Giêsu (23)
Người môn đệ đích thực của Chúa Giêsu (24)