Vấn đề hội nhập văn hóa (Phần I)
VẤN ĐỀ HỘI NHẬP VĂN HÓA
MỤC LỤC
I. NHỮNG TRĂN TRỞ CỦA SỰ HỘI NHẬP
2. Thầy cả Lữ Y Đoan (mất năm 1678)
3. Giám mục Pigneaux de Béhaine (1741-1799)
4. Léopold-Michel Cadière (1869-1955)
Kitô giáo được du nhập vào các nước châu Á khá muộn so với bề dày lịch sử của các nước này, nói chung là từ thế kỷ XVI và XVII.
Điều này có nghĩa là Kitô giáo đã tới vùng Á châu sau 15 thế kỷ chào đời, và sau nhiều thế kỷ người dân tại vùng đất này đã được nhào nặn trong các nền văn hóa lâu đời và các Tôn giáo lớn, đã ra đời và phát triển trên vùng đất châu Á hàng mấy trăm năm trước cả khi Kitô giáo ra đời vào đầu công nguyên. Các thừa sai lại đến từ một châu Âu nơi Kitô giáo đã bám rễ và trở thành như một thứ nền tảng cho sự hình thành và phát triển của nền văn hóa tại đây. Âu Á cho tới thời điểm này còn là hai thế giới khác biệt nhau và hầu như hoàn toàn biệt lập nhau.
I. NHỮNG TRĂN TRỞ CỦA SỰ HỘI NHẬP
1. Với các thừa sai dòng Tên
Các thừa sai lãnh sứ vụ truyền giáo tại các nước châu Á xem ra đã ý thức được ngay từ buổi đầu về sự khác biệt này. Khi khởi sự công cuộc truyền giáo tại Trung Quốc, các thừa sai dòng Tên tại Macao đã chấp nhận đường lối “thích nghi với văn hóa của nơi các thừa sai được gửi đến” và chủ trương “không tìm cách “biến người Trung Quốc thành một thứ ngoại kiều một khi trở thành người Kitô hữu”, đã được bề trên giám đốc Trung tâm tán thành.
Ý hướng thì rõ ràng, nhưng việc áp dụng vào thực tế lại gặp nhiều khó khăn, trăn trở. Tại Việt Nam, chỉ mười năm sau khi các thừa sai dòng Tên từ Macao tới truyền giáo tại Đàng Trong, Macao đã gửi một phái đoàn sang kinh lược, mang theo chỉ thị trong đó có lệnh phải hoàn toàn bỏ các tập tục cổ truyền Việt Nam về ma chay và cúng thờ tổ tiên.
Tuy nhiên, cha kinh lược “sau khi có những tiếp xúc tại chỗ, đã thấy được tầm quan trọng của vấn đề có liên quan tới tương lai truyền giáo ở Đàng Trong, nên báo cáo về Macao xin xem lại nội vụ. Trong báo cáo, có đoạn viết về nghi lễ thờ kính tổ tiên của người Đàng Trong : “Vì trong các nghi lễ thờ kính tổ tiên, có những điều là mê tín dị đoan, nhưng có những điều thuần túy có tính cách xã hội và vì có nhiều người trong chúng ta, do sợ sệt hơn là khôn ngoan, đã loại bỏ tất cả…”[1].
2. Chỉ thị của Bộ Truyền giáo
Công cuộc truyền giáo tại Việt Nam được trao cho các thừa sai người Pháp vào giữa thế kỷ XVII, dưới quyền hai giám mục đại diện tông tòa, F. Pallu và Lambert de la Motte. Trước khi các giám mục này lên đường tới nhiệm sở xứ truyền giáo, ngày 10.11.1659, Bộ Truyền giáo trao cho các ngài một bản chỉ thị, trong đó có chỉ thị về nhiệm vụ đào tạo linh mục bản xứ, và chỉ thị về nhiệm vụ tôn trọng văn hóa và tập tục của địa phương, rõ ràng và khá cụ thể. Xin ghi lại đây một phần của chỉ thị này có liên quan đến vấn đề :
“Các vị đứng có tìm cách, đừng có tìm lý lẽ để thuyết phục các dân tộc thay đổi nghi thức của họ, tập tục và phong hóa của họ, trừ ra tất cả đó rõ ràng là trái ngược với tôn giáo và luân lý. Không có gì bất hợp lý bằng đem nước Pháp, nước Tây Ban Nha hay nước Italia hay một nước châu Âu nào khác vào Trung Quốc [ám chỉ các nước châu Á]. Đừng đem đến cho các dân tộc ấy xứ sở của các vị, mà chỉ đem đến đức tin, một đức tin không từ chối cũng không làm thương tổn các nghi thức, các tập tục của bất cứ một dân tộc nào, miễn là tất cả đó không có gì là xấu, mà trái lại, đức tin của chúng ta muốn người ta cứ giữ và bảo vệ các thứ đó. Có thể nói là bản chất của con người là quý trọng, yêu mến và coi tập tục của xứ sở mình là hơn hết. Vậy nguyên nhân gây nên xa cách và hận thù là tìm cách thay đổi tập tục riêng của một dân tộc, nhất là các tập tục đó có từ lâu đời. Vậy việc gì sẽ xảy ra, nếu các vị xóa bỏ các tập tục đó để thay vào đó tập tục của xứ sở quý vị, đưa từ ngoài vào?
Đừng bao giờ đem so sánh tập tục của các dân tộc đó với tập tục của các nước châu Âu. Trái lại, quý vị hãy tìm cách làm quen với các tập tục đó. Hãy chiêm ngắm và ca tụng những gì đáng ca tụng. Những gì không đáng ca ngợi, nếu không nên ca ngợi om sòm như những kẻ nịnh bợ, thì cũng khôn ngoan đừng phê phán hay đừng bao giờ kết án một cách thiếu suy xét hoặc quá đáng. Đối với những tập tục không tốt, thì chỉ nên dè dặt hay im lặng, chứ đừng dùng lời nói. Khi những người đã có dịp theo đạo, thì họ sẽ dần dần bỏ các tập tục đó”[2].
Một văn kiện đã trở nên khá quen thuộc và thường được trích dẫn để chứng minh cho chủ trương hội nhập vào văn hóa, ngay từ buổi đầu của công cuộc truyền giáo tại châu Á.
Nhưng trong thực tế, lịch sử của công cuộc truyền giáo tại châu Á đã ghi lại không ít những vụ, những cuộc tranh luận hầu như không dứt cho tới tận gần đây, về thái độ phải có trước các tập tục này. Việc thờ cúng tổ tiên, nghi thức đối với người qua đời, đã là đề tài của các vụ tranh cãi nhiều khi gay gắt kéo dài và mới chỉ được giải quyết vào giữa thế kỷ XX đối với các Giáo hội tại Trung Quốc, Nhật Bản và hơn hai mười năm sau, tại Việt Nam.
Ngày 2.10.1964, Roma quyết định cho phép các tín hữu Công giáo Việt Nam áp dụng huấn dụ “Plane Compertum est” được ban bố ngày 8.12.1939 cho phép giáo hội Công giáo Trung Quốc và Nhật Bản được thờ cúng tổ tiên.
Phát biểu của Đức Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình nhân dịp ban hành văn kiện này quả là tiêu biểu cho sự trăn trở kéo dài này:
“Nay đến giờ mà trình độ hiểu biết của con người đã cho phép, lịch trình tiến hóa cũng như giao tiếp của thế giới ngày nay đã giúp cho mọi người nhận định và phân biệt được bao vấn đề khúc mắc giữa các phạm vi thế trần và siêu nhiên; dị đoan và tín ngưỡng, tôn kính và thờ phượng; thì như Cựu Ước nhường chỗ cho Tân Ước, công việc Tôn kính tổ tiên và các bậc Thánh hiền mà tới đây Tòa Thánh còn đợi cho giáo dân Việt Nam được chuẩn bị dần dần; ngày nay với các ơn Chúa Thánh Thần, lại phù hợp với tinh thần nhập thể của Công đồng Vatican II đồng thời tin rằng giáo hữu Việt Nam đã tới mức trưởng thành, ngày 2.10.1964, ngày trọng đại, Tòa Thánh đã phê chuẩn lời khẩn cầu của hàng giáo phẩm Việt Nam, xin cho được áp dụng ở Việt Nam, huấn dụ “Plane Compertum est” mà Thánh bộ Truyền giáo đã ban cho các Đấng Bản quyền Trung Hoa 25 năm trước đây”[3].
Sau khi Roma cho phép các tín đồ Công giáo Việt Nam được áp dụng huấn dụ “Plane Compertum est” này, ban Truyền giáo Trung tâm Công giáo Huế đã đề nghị một nghi thức tôn kính tổ tiên trong gia đình Công giáo tại Huế. Trong tập tài liệu này, các tác giả đưa ra một số nghi thức cụ thể và một số giải thích như sau :
“1. Để cụ thể hóa cấp bậc thờ phượng và tôn kính, có thể kê tượng ảnh Chúa lên cấp cao hơn, cấp dưới đặt bài vị và lư hương, chân đèn…như thế diễn đạt được tư tưởng : tiền Chúa, hậu linh : trên thờ Chúa, dưới thờ ông bà.
2. Đồ thờ phương theo tinh thần Á đông gồm bộ Tam sự (một đốc lư với hai chân đèn) và bộ ngũ sự (một đốc lư, 2 chân đèn, hai con hạc). Tinh thần tín ngưỡng hay luân lý mặc cho đồ vật ấy một hình thức tùy theo quan niệm thờ phượng hoặc tôn kính…Giữ lại các đồ thờ này với hai công tác: thờ Chúa và kính các Thánh trong kinh lễ, kính nhớ ông, bà, tổ tiên trong ngày húy nhật.
3. Hương và trầm tiêu biểu cho sự kính và nhớ như trầu và rượu trong sự giao hảo dân sự. Vô tửu bất thành lễ, không hương trầm cũng thiếu màu sắc kính và nhớ. Nhìn làn khói hương trầm nghi ngút cuộn bay, lòng dân Việt ta cảm thấy một ý nghĩa linh thiêng như cuộc tiếp xúc giữa vị linh thiêng và loài thọ tạo, giữa kẻ chết và người sống : nhờ cái hữu hình để gợi đến cái vô hình.
4. Cử chỉ chào hỏi kính trọng là sự vái lậy. Theo quan niệm “sự vong như sự tồn”, chết cũng như còn sống, sự bái lậy trước bài vị và chân dung có ý nghĩa tôn kính như cha mẹ còn sống.
5. Chết là hết ăn, nếu bảo ông bà tổ tiên còn hưởng hơi, đó là mê tín dị đoan. Nếu bảo rằng : “Dọn mâm cơm để ghi ơn ông bà rồi hạ xuống bàn cho cô bác con cháu dùng như bữa liên hoan”, ăn quả nhớ kẻ trồng cây thì ai dám bảo là dị đoan. Sự thật ngày nay là vậy”[4].
Mấy đề nghị của ban Truyền giáo Trung tâm Công giáo Huế về một nghi thức tôn kính tổ tiên trong gia đình Công giáo tại Huế được trích dẫn trên đây có thể được xem như một giải thích cặn kẽ về điều linh mục kinh lược dòng Tên nêu ra trong báo cáo gửi về Bề trên của dòng tại Macao hơn ba trăm năm trước đó!”
Và ngày 14.11.1974, các giám mục tại miền Nam Việt Nam ra thông cáo quy định cụ thể việc thờ kính ông bà, tổ tiên như sau:
1. Bàn thờ gia tiên để kính nhớ ông bà tổ tiên được đặt dưới bàn thờ Chúa trong gia đình, miễn là trên bàn thờ không bày biện điều gì biểu lộ sự mê tín dị đoan như hồn bạch.
2. Việc đốt nhang hương, đèn nến trên bàn thờ gia tiên và vái lậy trước bàn thờ là những cử chỉ thái độ hiếu thảo, tôn kính, nên được phép làm.
3. Ngày giỗ cũng là ngày kỵ nhật được cúng giỗ trong gia đình, theo phong tục địa phương, miễn là loại bỏ những gì là dị đoan, mê tín …và giảm thiểu, canh cải những lễ vật để biểu dương đúng ý nghĩa thành kính, biết ơn ông bà, như dâng hoa trái, hương đèn…
4. Trong hôn lễ, dâu rể được làm lễ tổ, lễ gia tiên trước bàn thờ, giường thờ tổ tiên, vì đó là nghi lễ tỏ lòng biết ơn, hiếu kính, trình diện với ông bà.
5. Trong tang lễ, được vái lậy trước thi hài người quá cố, đốt hương vái theo phong tục người địa phương, để tỏ lòng cung kính người đã khuất, cũng như giáo hội cho đốt nến, dâng hương, nghiêng mình trước thi hài người quá cố.
6. Được tham dự nghi lễ vị Thành Hoàng, quen gọi là “Phúc thần” tại đình làng, để tỏ lòng cung kính biết ơn những vị mà theo lịch sử, đã có công với dân tộc, hoặc là ân nhân của làng, chứ không phải vì mê tín, như đối với các yêu thần, tà thần.
II. NỖ LỰC HỘI NHẬP
Nhưng bên trong một lịch sử của những trăn trở và tìm tòi, nhiều khi bi đát này, người ta vẫn bắt gặp những gương mặt tượng trưng cho những nỗ lực không mệt mỏi để tìm hiểu cặn kẽ các nền văn hóa, ngôn ngữ, tư tưởng, các tôn giáo và phong tục bản xứ, để làm cơ sở cho sứ vụ rao giảng Tin Mừng qua đối thoại với tôn giáo, hội nhập vào các nền văn hóa và thực tại của cuộc sống tại các nước châu Á. Xin nêu lên ở đây một số dung mạo tiêu biểu này.
1. Mattêô Ricci (1552-1610)
Mattêô Ricci, thừa sai dòng Tên tại Trung Quốc, “con người của Đối thoại giữa lòng tin và văn hóa”, theo cách gọi của Hồng y Stanilas Rylko, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh phụ trách Giáo dân, tại cuộc thảo luận ngày 16.2.2010, được tổ chức tại Trụ sở UNESCO (Paris), nhân dịp kỷ niệm lần thứ bốn trăm ngày mất của ngài. Đức hồng y đánh giá công cuộc thừa sai của cha Mattêô Ricci như sau : “Cái làm cho tính thời sự của Mattêô Ricci trở nên trường tồn, đó là ước muốn đem lại cho dân Trung Hoa vĩ đại một Tin Mừng được loan báo và trình bày như sự viên mãn của một tiến trình văn hóa và xã hội phong phú”.
Đức giáo hoàng Bênêđictô XVI cũng đã ca ngợi Mattêô Ricci trước hơn 7.000 khách hành hương thuộc vùng quê hương của nhà thừa sai này : “Chớ gì gương của Mattêô Ricci thúc đẩy và khuyến khích chúng ta sống lòng tin Kitô giáo một cách sâu đậm, trong sự đối thoại với các nền văn hóa khác nhau, nhưng trong sự xác tín rằng nơi Đức Kitô, nền nhân văn đích thực, mở ra cho Thiên Chúa, giàu các giá trị đạo đức và tinh thần, có khả năng đáp ứng những ước muốn thâm sâu nhất của tâm hồn con người được thể hiện”[5].
Mattêô Ricci đã được phong chân phước. Và với ngài, nỗ lực đối thoại với các nền văn hóa trong việc rao giảng Tin Mừng Cứu độ tại châu Á.
2. Thầy cả Lữ Y Đoan (mất năm 1678)
Một trong những linh mục “bản xứ” đầu tiên của Giáo hội Công giáo Việt Nam. Tên tuổi của vị Thầy cả của thế kỷ XVII này gắn liền với một tác phẩm có tên là “Sấm Truyền Ca” viết lại năm quyền sách đầu của bộ Cựu Ước. Dĩ nhiên, đây không phải là một bản dịch Thánh Kinh mà đúng hơn là một cố gắng viết lại những gì được kể trong năm quyển Thánh Kinh này theo cách hiểu và cách diễn tả của mình. Sau đây là một số đoạn của tác phẩm này :
“Ngày ngày trước mắt chúng sinh
Chữ đời chữ đạo phân minh đôi đường
Xưa nay trong kiếp vô thường
Thấy điều vân cẩu mà thương nhân phàm
Loài người từ thuở A-dam
Đua nhau xây dựng mộng ham làm trời
Một pho Kinh Thánh ra đời
Chứng minh vạn đại những lời do Thiên…
Một đoạn khác trích từ Lập Quốc Kinh (sách Xuất Hành) :
“Xưa nay diễn biến trò đời
Đồ vương tranh bá bao người máu xương
Một dân dựng nước khác thường
Bàn tay Thượng Đế đo lường trước sau
Giếp Tô quyền lực Phan trào
Muôn binh hùng dũng, đất giàu dân đông
Yết Linh đứng dậy tay không
Phá xiềng nô lệ về vùng Trà Nam…
Lữ Y Đoan, khi “đọc” Thánh Kinh vào thế kỷ XVII, đã mạnh dạn sử dụng ngôn ngữ, hình ảnh quen thuộc của người Việt Nam thế kỷ XVII, một cách không câu nệ, nhưng phóng khoáng, sáng tạo, để đánh động người đương thời, quả đã làm tròn nhiệm vụ “hội nhập” của linh mục, trong một thời nhất định. Đã hẳn, hội nhập văn hóa đối với người sống trong thế kỷ XXI sẽ không phải là làm lại những gì Lữ Y Đoan đã làm, mà là chu toàn trách nhiệm của mình trong xã hội và thời đại của mình với tinh thần sáng tạo, lòng dũng cảm của Lữ Y Đoan để tìm và chấp nhận hình thức, ngôn ngữ, hình ảnh quen thuộc và có sức cảm hóa trái tim, tấm lòng của người hôm nay?[6]
(còn tiếp)
Giuse Nguyễn
Nguồn: hdgmvietnam.com
---------------------------
[1] Trương Bá Cần, Lịch sử phát triển Công giáo ở Việt Nam, tập I, Nxb Tôn giáo, Hà Nội, 2008, trg.53-54.
[2] Trích theo Trương Bá Cần, sđd. trg. 205-206.
[3] Thư chung của Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình, ngày 15.10.1964, trong Bản tin Địa phận.
[4] Trích từ báo Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, số 193, tháng 6.1965, trg. 556-557.
[5] Xem, Hiệp Thông, số 62 (tháng 11 & 12.2010), trg. 227-235.
[6] Đọc giả có thể tìm hiểu thêm về tác phẩm này qua một số bài phân tính văn học của các học giả Hãn Nguyên Nguyễn Nhã, Trần Thái Đỉnh, Trần Thanh Đạm, Nguyễn Văn Trung…trong tập Về Sách Báo của Tác Giả Công Giáo (Thế kỷ XVII-XIX) (tài liệu tham khảo), Trường Đại học Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, TP. HCM, 1993), trg.