Vấn đề hội nhập văn hóa (Phần II)

[ Điểm đánh giá5/5 ]1 người đã bình chọn
Đã xem: 736 | Cập nhật lần cuối: 7/10/2021 11:33:25 AM | RSS

VẤN ĐỀ HỘI NHẬP VĂN HÓA (Phần tiếp theo)

MỤC LỤC

I. NHỮNG TRĂN TRỞ CỦA SỰ HỘI NHẬP

1. Với các thừa sai dòng Tên

2. Chỉ thị của Bộ Truyền giáo

II. NỖ LỰC HỘI NHẬP

1. Mattêô Ricci (1552-1610)

2. Thầy cả Lữ Y Đoan (mất năm 1678)

3. Giám mục Pigneaux de Béhaine (1741-1799)

4. Léopold-Michel Cadière (1869-1955)

III. HIỆN TẠI TƯƠNG LAI

---*---

3. Giám mục Pigneaux de Béhaine (1741-1799)

Qua các thư từ để lại, người ta còn thấy nơi Giám mục Pigneaux de Béhaine một thừa sai nặng lòng với công việc ngày nay chúng ta gọi là sự hội nhập của Kitô giáo vào một nền văn hóa. Giám mục còn tỏ ra là một con người không mệt mỏi đấu tranh cho sự hội nhập này.

Theo Giám mục, nhu cầu hội nhập này đã có sẵn trong truyền thống của Giáo hội Công giáo. Sự hội nhập này đòi hỏi một mặt, Giáo hội vẫn phải giữ nguyên các tín điều và những gì là thiết yếu của Công giáo nhưng mặt khác, vẫn có thể gần gũi một cách tối đa với các tập tục và nền giáo dục của các dân tộc[7]. Về điều này, chúng ta chỉ có thể đồng ý với giám mục.

Những năm tháng dài làm việc tại Việt Nam, tiếp xúc với nhiều thành phần xã hội và nhất là có cơ hội để tiếp xúc với cuộc sống tại triều đình chúa Nguyễn, với thành phần có thể được gọi là trí thức của Việt Nam, đã giúp cho giám mục có được những yếu tố để so sánh cách cử hành các nghi lễ tôn giáo của Công giáo với cách cử hành nghi lễ tại Việt Nam, và từ đó nêu lên nhu cầu phải có những thay đổi trong cách cử hành nghi lễ của Giáo hội tại đây. Trong thư gửi cho một thừa sai, giám mục đã đưa ra một số so sánh cụ thể :

“Để cho cha hiểu là có bao nhiêu việc phải thay đổi, tôi xin dừng lại ở một trong số những điều thường tình nhất và ít quan trọng nhất. Cái áo “surpli,” áo các phép[8], rất thông dụng trong tất cả các nghi lễ của Giáo hội (công giáo), được chúng ta coi là một thứ y phục trang trọng, đoan trang, và có lẽ có những người châu Âu đã đi tới chỗ cho đây là một thứ y phục oai phong nữa là đàng khác: thế nhưng cũng chính cái áo này, về hình thức cũng như về mầu sắc, lại làm cho những người dân xứ này lấy làm khó chịu. Điều tôi nói về cái áo các phép cũng có thể áp dụng cho nhiều cái khác nữa. Nhưng như thế cũng đủ để cha hiểu rằng nếu Rôma chấp nhận để chúng ta có thể có một nền phụng vụ Trung Quốc[9] thì các nghi lễ, y phục, bài hát, tất cả phải gần gũi với phong tục, tập quán của những người chúng ta tới làm việc cho.”

Giám mục tiếp tục so sánh : những nghi lễ thật oai nghiêm đối với chúng ta thì trước con mắt của những người Trung Quốc, những người Đàng Trong, chẳng có gì là thánh thiêng cả. Cái mũ, phẩm phục ngắn và chật, cách thức chúng ta xông hương, cách cúi đầu nửa vời của chúng ta, việc chúng ta để đầu trần…khi cử hành nghi lễ tôn giáo, tất cả đều khiến chúng ta trở thành lố bịch và thiếu nghiêm trang trước con mắt những người dân ở xứ này. Ở đây, người ta chỉ thấy những bộ áo dài và rộng, những cái bái lậy phủ phục tới tận đất, đầy vẻ trang nghiêm. Nếu được chứng kiến các nghi lễ tại triều đình cũng như tại các đền thờ, người ta sẽ bắt buộc phải nhìn nhận rằng các nghi lễ này được thiết lập để dung hòa sự tôn kính với việc tạo sự tập trung.[10]

Công đồng chung Vatican II diễn ra vào giữa thế kỷ XX mới bắt đầu cho phép rộng rãi các Giáo hội công giáo địa phương sử dụng tiếng địa phương, thay vì tiếng Latinh, trong các nghi lễ tôn giáo. Và khi những người phụ trách nghi lễ ở các địa phương, từ sau Công đồng chung Vatican II này, chú tâm vào việc dịch các bản văn dùng trong các nghi lễ ra tiếng địa phương sao cho thật sát nghĩa, thì vào cuối thế kỷ XVIII, giám mục Pigneaux de Béhaine, khi bàn về ngôn ngữ sử dụng trong nghi lễ, đã đặt câu hỏi : “Nếu chỉ là dịch từng chữ một bản văn phụng vụ bằng tiếng Latinh của chúng ta sang tiếng Trung Quốc, thì có ích lợi gì ? Và liệu người ta có thể làm như vậy được chăng ? Ai dám dịch sát từng chữ toàn bộ Thánh Kinh sang tiếng Trung Quốc? Một sách nhật tụng được soạn như sách chúng ta vẫn đọc sẽ có ý nghĩa gì khi được chuyển sang tiếng Trung Quốc” như người ta có ý định làm ?…

Và giám mục đề nghị : Để trình bầy với Tòa Thánh những gì có thể là ích lợi nhất trong phụng vụ này, chúng ta cần phải có không chỉ các nhà thần học thông thái, những kẻ am hiểu tường tận ngôn ngữ, chữ viết và các tập tục của người Trung Quốc mà những người này còn phải được gột bỏ tất cả các định kiến của một nền giáo dục châu Âu.

Điều đáng ghi nhận ở đây là giám mục đã không chỉ nêu vấn đề một cách riêng tư, hay chỉ bàn về vấn đề, mà còn trực tiếp đặt vấn đề với chính Rôma, yêu cầu Trung ương của Giáo hội phải rút lại quyết định của mình liên quan tới một tập tục đặc biệt của người châu Á đối với người quá cố, một sắc chỉ đã được ban hành nhưng, đối với giám mục, xem ra đã dựa trên một “kiểu trình bày sai lầm,” do đó, cản trở sự hội nhập của lòng tin Kitô giáo.

Trong thư đề ngày 5.6.1796 gửi giám mục Caradre, người được Rôma đề cử để nghiên cứu khiếu nại của Pigneaux de Béhaine, giám mục cho biết năm trước đó, giám mục đã gửi cho Rôma các ý kiến của mình liên quan đến vấn đề “lạy xác” người quá cố trong các gia đình của người châu Á và người Việt Nam. Theo giám mục, đức vâng lời không ngăn cản người ta trình bày những nghi ngờ của mình. Vẫn theo giám mục thì từ khi thiết lập các công cuộc truyền giáo, người công giáo luôn được phép “lạy xác” cha mẹ qua đời. Ngay cả vào thời của các giáo hoàng Clémentê XI và Benêdictô XIV khi người ta tranh luận một cách sôi nổi “về các nghi thức Trung Hoa này,” xem ra vẫn không có ai nghĩ rằng trong việc “lạy xác” có cái vẻ gì đó có thể bị coi là dị đoan. Chỉ từ 1761 hay 1762 mới có một số thừa sai la toáng lên về việc “lạy xác” này. Các thừa sai này đã viết thư về Rôma nói rằng việc “lạy xác” là một “việc tôn thờ dành cho hồn của cha mẹ” và khi lạy, người ngoại cầu xin người quá cố phù hộ cho họ. Rôma, trước kiểu trình bày này, mới ra lệnh cho các thừa sai cấm người công giáo không được “lạy xác” nữa[11].

Những ý tưởng này của Giám mục Pigneaux de Béhaine về nguyên tắc cũng như thực tế của việc hội nhập của đức tin Kitô giáo vào văn hóa quả đáng được chúng ta ngày nay triển khai trong quá trình suy tư và tìm kiếm con đường rao giảng Tin Mừng cứu độ của Chúa Giêsu và cho việc cử hành lòng tin Kitô giáo tại châu Á giàu truyền thống văn hóa và tôn giáo này.

4. Léopold-Michel Cadière (1869-1955)

Một đòi hỏi của một sự hội nhập đúng đắn, đó là hiểu rõ người hay dân tộc được Giáo hội mời gọi đến với Tin Mừng. Léopold-Michel Cadière, thuộc Hội Thừa sai Hải ngoại Paris (M.E.P.), vị thừa sai của nửa đầu thế kỷ XX tại Việt Nam, đã đẩy việc đáp lại đòi hỏi này tới một đỉnh cao khó có thể vượt qua.

Từ tháng 10.1895, thừa sai lần lượt được cử tới coi sóc các họ đạo Tam Tòa, giáp thành Đồng Hới, nơi có Lũy Thầy nổi tiếng, rồi Cự Lạc, nằm bên hữu ngạn Nguồn Sơn, một nhánh của sông Gianh, sau đó, Cổ Vưu, huyện lỵ Dinh Cát, rồi Di Loan ở Cửa Tùng trong vùng nông thôn ở Quảng Bình.

Là một thừa sai nước ngoài, linh mục đã nêu gương như một con người dày công tìm hiểu Việt Nam, đất nước, con người, ngôn ngữ, văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng, lịch sử của nơi ngài được cử đến để rao giảng Tin Mừng. Một sự tìm hiểu cặn kẽ đến độ các kết quả tìm hiểu của linh mục đã trở thành những công trình nghiên cứu thực sự khoa học, sáng tạo trong từng ngành, có thể được xem như chóp đỉnh của việc tìm hiểu cần thiết cho việc hội nhập vào một nền văn hóa này. Louis Malleret, nhà khảo cổ học nổi tiếng thuộc Trường Viễn Đông Bác Cổ Pháp, vào năm 1957, đã tổng kê được khoảng 250 tên công trình (có thể là còn thiếu) của thừa sai Léopold Cadière. Trong số này, không ít công trình vượt quá con số 350 trang, như cuốn Monographie de la semi-voyelle labiale en sino-annamite et en annamite / Chuyên khảo về bán phụ âm môi trong Hán-Việt và tiếng Việt (B.E.F.E.O., 1908-1910).

Cha Cadière, thừa sai và nhà nghiên cứu, coi việc thông thạo ngôn ngữ, không chỉ hiện tại, mà trong sự biến chuyển trước đó, như là cơ sở của các việc nghiên cứu đồng thời cũng là cơ sở của công việc mục vụ của mình. Như cha viết vào năm 1907 trong lời dẫn nhập của cuốn Philosophie populaire annamite / Triết lý dân gian của người An Nam:

“Ngôn ngữ là tấm gương phản chiếu cách nghĩ của một dân tộc. Nó phản ánh tất cả các khái niệm của con người. Chính qua ngôn ngữ, con người học suy tư, và cũng chính qua ngôn ngữ, con người diễn tả điều mình cảm nhận và điều con người nghĩ. Ngôn ngữ vừa là khuôn đúc, vừa là thông dịch viên của bộ óc. Bởi vậy, nếu muốn biết người Việt Nam nghĩ gì, chúng ta cần phải tìm hiểu nơi ngôn ngữ của họ” (Philosophie populaire annamite, 1907, phần dẫn nhập).

Một tìm hiểu thấu đáo, tới nơi, tới chốn hay đi vào chỗ thâm sâu của đối tượng mình tìm hiểu đòi hỏi thiện cảm và tình yêu mến. Linh mục có sẵn các thứ này: “Tôi yêu quý họ vì những đức tính luân lý của họ. Là con của nông dân, tôi đã sống cuộc đời của tôi tại An Nam, giữa những người nông dân, nên tôi đã có thể hiểu được rằng người nông dân Pháp và người nông dân Việt Nam giống nhau một cách lạ lùng: ở đây cũng như ở bên ấy, những ý tưởng nhỏ về cuộc sống thường ngày, về đồng ruộng, chợ búa, những bữa ăn thường ngày, làng mạc; nhưng ở đây cũng như ở bên ấy, những tình cảm lớn, tình yêu thâm sâu đối với gia đình, nâng đỡ và trợ giúp lẫn nhau, cần cù trong lao động, cam chịu trong đời sống nghèo, trong cuộc sống vất vả hàng ngày”. Mối thiện cảm thâm sâu của cha đối với cộng đồng mà cha nghiên cứu và được cộng đồng này tin tưởng quả là một chiếc chìa khóa của sự thành công của cha Cadière với tư cách nhà nghiên cứu.

Thiện cảm và lòng yêu mến khiến người ta sẵn sàng trở nên cởi mở. Đó là thái độ của cha Cadière trong lĩnh vực tôn giáo khiến cha có thể nói với một thứ cảm hứng trữ tình về một tôn giáo không phải là tôn giáo mình truyền giảng: “Nơi người Việt Nam, trong mọi tầng lớp xã hội, tình cảm tôn giáo được bộc lộ một cách mạnh mẽ và bao trùm toàn bộ đời sống, các cử chỉ thường ngày, quan trọng hay thường tình. Tình cảm ấy có lúc bùng nổ dưới ánh sáng mặt trời trong những nghi lễ long trọng, trong những ngôi đền thờ cúng được Nhà nước nhìn nhận, có lúc thầm lặng như lén lút, dưới một gốc cây, trước một hòn đá sần sùi. Người ta có thể diễn tả lời cầu xin bằng ngôn ngữ thanh tao, bằng thơ có nhạc và múa phụ họa, nhưng cũng có thể thì thầm bày tỏ nguyện ước tự đáy lòng khi đi qua một miếu thờ. Người ta phủ phục, chậm rãi, trân trọng, trang nghiêm, đầu đội mũ vuông, mang áo thụng…”[12] .

“Từ tôn giáo bao hàm nhiều mức độ. Nếu hiểu tôn giáo là niềm tin ở một Đấng tuyệt đối, vô cùng lớn và vô cùng hoàn hảo; là sự kết hiệp bằng tinh thần với Đấng hiện diện khắp nơi; là kết hiệp bằng con tim với Thiên Chúa vô cùng tốt lành, Đấng cai quản và duy trì mọi sự; cuối cùng là sự nhìn nhận những sự vô cùng hoàn hảo của Ngài bằng một việc tôn thờ xứng với Ngài, thì phải nói rằng người Việt Nam không phải là người có tôn giáo. Khái niệm về một Đấng tối cao vượt khỏi họ; họ sống không có Thiên Chúa. Nhưng nếu hiểu tôn giáo là tín ngưỡng, là niềm tin cụ thể nơi một thế giới siêu nhiên có tác động trên cuộc sống, thì phải nhìn nhận rằng dân tộc Việt Nam có đức tính này ở một trình độ cao”[13].

Trong một bài diễn thuyết tại Louvain năm 1912, Instructions pratiques pour les missionnaires qui font des observations religieuses / Các hướng dẫn cụ thể cho các thừa sai khi quan sát [lĩnh vực] tôn giáo, cha Cadière đã trình bày một số nguyên tắc hướng dẫn việc nghiên cứu của cha: trước hết, “phải biết và biết rất kỹ ngôn ngữ của nơi mình hoạt động, tỏ lòng kính trọng đối với các biểu hiện của tình cảm tôn giáo mình nghiên cứu, nghiên cứu các sự kiện với lòng thiện cảm (…); không được tác động hoặc bằng quyền bính, hoặc bằng tinh thần, những người mình nêu câu hỏi, bằng cách giải thích một cách hàm hồ các câu trả lời của họ, hay đặt vào miệng họ những điều họ không nói; phải có được sự tin tưởng của người bản địa, phải không ngừng chú ý tới đối tượng mình nghiên cứu; rút ra từ mỗi hạng người xung quanh mình những thông tin…” [14].

Kết quả nghiên cứu của Léopold Cadière quả là đồ sộ và bao quát nhiều lĩnh vực với trình độ khoa học không thể phủ nhận. Nhưng tất cả đều để phục vụ cho công cuộc rao giảng Tin Mừng của vì thừa sai này. Nhà khảo cổ học Louis Malleret, Tổng thanh tra của E.F.E.O., đã viết: “Toàn bộ các công trình nghiên cứu của [cha Cadière] nằm trong công cuộc tông đồ của cha. Một trong các bạn đồng hội của cha, cha Lefas, đã rất có lý khi nhìn nhận các công trình nghiên cứu trong lĩnh vực dân tộc học tôn giáo của [cha Cadière] là một đóng góp quan trọng trong việc du nhập Kitô giáo.” Tu es sacerdos in aeternum / Con là linh mục đời đời. Là nhà khoa học uyên bác, cha Cadière trước tiên là con người của Giáo Hội. Chúng tôi nghĩ là cần nói lên điều này như một câu trả lời muộn màng cho tất cả những ai đã không thể thấy, vào sinh thời của cha, đóng góp to lớn của các công trình khoa học của cha vào tác động sâu sắc của công cuộc truyền giáo”[15].

Trên đây chỉ là một số dung mạo, ít nhiều có tính tiêu biểu, được gợi lại để giúp chúng ta hình dung những nỗ lực trong suốt chiều dài của lịch sử rao giảng Tin Mừng tại châu Á trong đường hướng đối thoại và hội nhập vào các nền văn hóa tại châu Á, dĩ nhiên, không phải như những kho tàng do quá khứ để lại, mà còn phải như những thực tại sống động đang tạo nên cuộc sống kinh tế, xã hội, văn hóa… với những vui, buồn, hy vọng và cả những thất vọng của ngày hôm nay.

III. HIỆN TẠI VÀ TƯƠNG LAI

Và chúng ta có thể vui mừng khi thấy những nỗ lực này, và những cố gắng của bao người khác đã phảng phất xuất hiện trong các Đề nghị của các Nghị phụ trong Khóa đặc biệt về châu Á của Thượng Hội đồng Giám mục tại Rôma năm 1998.

Thực vậy, các Nghị phụ tại Khóa đặc biệt về châu Á của Thượng hội đồng Giám mục thế giới, từ nhận định về những thực tại đặc điểm của châu Á : đa văn hóa và gồm những văn hóa lâu đời, phong phú, đa tôn giáo với những tôn giáo thế giới lớn ra đời và phát triển ngay trên chính vùng đất châu Á và là truyền thống tôn giáo của đa số người dân tại đây, châu Á của một đa số người nghèo và người trẻ, đã long trọng đề nghị một sứ vụ rao giảng Tin Mừng bao gồm sự Hội nhập vào một nền văn hóa, “đối thoại với các truyền thống tôn giáo lớn của châu Á như Ấn Giáo, Phật giáo, Lão giáo, Khổng giáo, Jain giáo, Shaman, Shinto, Do Thái giáo, Zoroastrianisme, Hồi giáo, Sikhism, và với tất cả những ai không thuộc vào một tôn giáo nào” (số 3).

Dưới con mắt của các Nghị phụ, sự hội nhập và đối thoại này không phải là một chiến lược hay chiến thuật, chủ nghĩa thích nghi mà là do chính sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần là tác nhân của công cuộc rao giảng Tin Mừng và do đó, cũng là tác nhân của sự hội nhập và đối thoại này. “Chúa Thánh Thần, do đó, là Đấng thúc đẩy đầu tiên trong việc rao giảng Tin Mừng trong bối cảnh đa văn hóa và đa tôn giáo của châu Á. Ngài cũng là tác nhân đầu tiên của việc hội nhập văn hóa, của đối thoại đại kết và liên tôn” (số 12).

“Các Giáo hội phải được nhận chìm trong các thực tại khác nhau, trái nghịch nhau, thậm chí mâu thuẫn nhau của châu Á. Chỉ khi được nhận chìm như vậy, Giáo hội mới có thể định rõ được sứ vụ của mình đối với các dân tộc tại châu Á theo một cách thức có thể hiểu và chấp nhận được” (số 3).

Các Nghị phụ cũng đòi hỏi sự hội nhập vào một nền văn hóa phải được triển khai trong mọi lĩnh vực: thần học, phụng vụ, đào tạo linh mục và tu sĩ, giảng dạy giáo lý, tu đức, thể hiện tính tôn giáo bình dân, vân vân (số 43). Để làm công việc hội nhập này, trước hết “Phải tìm ra những cách thức và cách tiếp cận thích hợp, sáng tạo và năng động để thúc đẩy sự hội nhập văn hóa trong các lĩnh vực này”. Và một yêu cầu khác cũng có thể được xem là then chốt của việc hội nhập theo đúng nghĩa:

“Công việc để Tin Mừng cắm rễ trong các nền văn hóa khác nhau của châu Á đòi hỏi nhiều suy nghĩ và nhận biết, đặc biệt trong các xã hội ở đó văn hóa thể tục và Tôn giáo Truyền thống gắn bó mật thiết với nhau”. Bởi vậy, các Nghị phụ đề nghị “Cần có những người được chuyên môn hóa về mặt thần học và khoa học nhân văn để giúp đỡ trong tiến trình này”. Song song với công việc này là “việc tiếp tục nghiên cứu thần học bởi các nhà thần học cách riêng và bởi từng Giáo hội địa phương nói chung. Việc nghiên cứu thần học này cần phải được đẩy mạnh với lòng can đảm, trong sự trung tín với Thánh Kinh và Truyền thống của Giáo hội, trong sự hiệp thông với Huấn quyền và trong ý thức đầy đủ về các thực tại mục vụ” (số 43).

Các Nghị phụ cũng không lĩnh vực phụng vụ : Phụng vụ là phương tiện chính của việc Phúc Âm hóa. Tại các Giáo hội phương Đông, phụng vụ đã duy trì lòng tin và được hội nhập văn hóa một cách thành công. Phụng vụ phải đánh động con tim và mang đầy ý nghĩa đối với người dân của Giáo hội địa phương. Đối với nhiều người Công giáo Á châu, phụng vụ chính thức thường được kinh nghiệm như xa lạ và không đánh động con tim của họ. Điều này cho thấy nhu cầu đối với việc hội nhập văn hóa phụng vụ theo một cách thức phụng vụ trở thành có ý nghĩa hơn và nuôi dưỡng người dân trong việc đặt chính các nền tôn giáo của họ (cf. Evangelii Nuntiandi 48).

Do đó, các Giáo hội địa phương đến quyền và tự do để hội nhập phụng vụ vào văn hóa qua việc thích nghi phụng vụ với các nền văn hóa địa phương trong khi nhìn nhận nhu cầu đối thoại và hiệp thông với Tòa Thánh, nguyên tắc của sự hiệp nhất trong Giáo hội.

Thượng Hội đồng thỉnh cầu Thánh bộ Phụng tự cho phép các Hội đồng Giám mục địa phương quyền hay khả năng phê chuẩn các bản dịch các bản văn phụng vụ trong tiếng bản địa cuối cùng được gửi tới bộ phận trên.

Cần phải nhìn nhận rằng việc hội nhập văn hóa trong phụng vụ, mặc dù cần thiết, là một nhiệm vụ tế nhị vốn không thể và không được làm tổn hại những điểm thiết yếu của phụng vụ và đức tin Kitô giáo.

Người Trung Hoa vẽ tranh “Chúa Giêsu và người thanh niên giàu có” (Mc 10), 1879, Bắc Kinh.

Đối thoại và hội nhập trong rao giảng Tin Mừng Cứu độ của Chúa Giêsu Kitô đã trở thành định hướng của cả Giáo hội tại châu Á.

Trích Tập san Hiệp Thông / HĐGM VN, Số 71 (Tháng 07 & 08 năm 2012)

Giuse Nguyễn

Nguồn: hdgmvietnam.com


[7] Xem thư đề ngày 5.6.1796 .

[8] Một loại lễ phục, màu trắng, dài gần tới đầu gối, linh mục thường mặc để cử hành một số lễ nghi tôn giáo.

[9] Thường được dùng để chỉ chung châu Á

[10] Vol. 746, trg 553.

[11] thư đề ngày 5.6.1796 gửi giám mục Caradre.

[12] C.P.R.V., trang 1-2.

[13] C.P.R.V.III, trang 68.

[14] C.P.R.V.III, các trang 274-275.

[15] C.P.R.V., III, trang 15