Gioan Phaolô II: Thông điệp lao động của con người (1)

[ Điểm đánh giá5/5 ]1 người đã bình chọn
Đã xem: 1643 | Cập nhật lần cuối: 10/20/2019 4:47:02 PM | RSS

LỜI GIỚI THIỆU

Nhân Bản Hóa Lao Động

Bản thông điệp của ĐGH Phaolô II được dành để trình bày về một đề tài cũ xưa như trái đất: Vấn đề lao động, ngay từ những trang đầu của sách Sáng Thế chúng ta đã thấy Đấng Tạo Hóa gắn lao động liền với con người, coi đó như một sứ vụ, một tương lai: “Hãy sinh sản hãy gia tăng đầy dãy trái đất và hãy bắt nó phục tùng” hoạt động của con người trên thế gian là tiếp tục công việc tạo dựng lưu truyền đời sống và biến đổi thiên nhiên đi song song với nhau.

Tuy nhiên người ta không thể phủ nhận sự tiến hóa kỳ lạ của các hình thức lao động, có từ những ngày đầu và nhất là từ một thế kỷ – nói cho thật đúng là từ 90 năm nay – kể từ khi đức Giáo Hoàng Lêô XIII phát biểu lần đầu tiên trong lịch sử Giáo Hội về “vấn đề thợ thuyền”. Ngày nay, vào kỷ nguyên của những máy vi phát, máy điện toán, của sự dự phòng xã hội và các quyền nghiệp đoàn, các tổ chức đa quốc gia và cuộc khủng hoảng việc làm trên khắp nơi, các dự kiện hoàn toàn khác hẳn và các trách nhiệm ngày càng thêm lớn lao. Thế giới lao động là một thế giới đầy khủng hoảng căng thẳng. Trong sự kiện lịch sử này ĐGH kêu gọi tất cả chúng ta phải lưu tâm dùng đạo đức và ý thức luân lý để đem lại nhân tính cho hoạt động của con người với các điều kiện tổ chức và các hợp lực tối tân của hoạt động này.

Lao động phục vụ cho con người chứ không phải con người phục vụ cho lao động.

Ngày nay lao động của con người đang đứng giữa hai ngả đường. Con đường của kỹ thuật: Các ngành kỹ nghệ phát triển, những kỹ thuật tân tiến, điện tử, điện toán, viễn toán … đã mở rộng tầm quan hệ giữa con người và thiên nhiên đến mức độ biến máy móc thành tác giả thứ nhất của việc biến đổi sự vật. Con đường của kinh tế: giá cả của năng lượng và nguyên liệu, ý thức của con người trước tính chất hạn chế của tài nguyên thiên nhiên và những nguy cơ của ô nhiễm, sự xuất hiện trên chính trường thế giới của những dân tộc mới đây còn bị lệ thuộc, ngày nay đòi hỏi chỗ đứng trong việc đưa ra những quyết định quốc tế. Việc phân phối lao động thế giới trở thành một vấn đề đặc biệt và sự thất nghiệp là dấu hiệu sự thất bại ê chề của tiến bộ, sự tiến bộ vẫn tự phụ là sẽ đảm bảo cho mọi người được sống đầy đủ dư dật.

Đối với các Kitô hữu, nhân tính của lao động là tính chất chủ chốt của tất cả “vấn đề xã hội”. Nó đáng để cho chúng ta dừng chân suy nghĩ để phán đoán về những phán đoán mới đây theo ý nghĩa hiện đại của hoạt động con người cũng như về những công việc mới đang chờ đợi chúng ta.

ĐGH tự hỏi không biết có phải con người đã đảo lộn bậc thang giá trị trong các xã hội hiện đang tăng trưởng không. Kỹ thuật – tức là lao động theo ý nghĩa khách quan – cung cấp cho người lao động những dụng cụ gia tăng gấp trăm sức mạnh hoạt động của họ, làm dễ dàng, tăng thêm tốc độ và hoàn bị cho lao động; Kỹ thuật là đồng minh của con người song nó cũng có thể phản lại trở thành một kẻ thù địch khi việc cơ giới hóa hất chân con người, làm họ mất những sảng khoái trong công việc, ngăn chặn óc sáng tạo và giảm bớt tinh thần trách nhiệm của họ; phát sinh ra nạn thất nghiệp và nô lệ hóa con người, khiến họ còn chỉ là người thi hành lệnh của các tác phẩm của mình. Nhân phẩm của lao động như bị tha hóa tận gốc rễ khi con người và nhiệm vụ của họ bị chủ nghĩa duy vật và duy kinh tế biến thành một thứ hàng hóa, một thứ lực lượng trong lao động, một thứ “dụng cụ sản xuất”. Sự đảo lộn các giá trị là một sự kiện hiển nhiên; trong chế độ tư bản, nó được khoác bộ áo chủ thuyết. Người lao động được đối xử không khác gì toàn bộ các phương tiện vật chất của sản xuất và không được coi là mục tiêu của tất cả tiến trình kinh tế: nói tóm lại, họ bị khai thác cho các mưu lợi về vật chất.

Con người là chủ thể của lao động tức là lao động theo nghĩa chủ quan như Đức Gioan Phaolô II nói – có nghĩa là nhân vị của con người phải là một nhân tố đứng ở trên. Và đây là vấn đề thuộc đạo đức học. Trong việc làm, sinh vật tự biểu lộ ra với chính mình, nhờ làm chủ được các sự vật và nhờ khả năng quyết đoán của mình; họ nuôi sống gia đình và tham gia làm giàu cho di sản lịch sử và xã hội của đất nước. Họ hiểu rõ mình liên đới với tất cả các người lao động trong gia đình nhân loại. Lao động con người liên đới chúng ta lại với nhau. Lời Kinh Thánh kêu gọi “hãy chế ngự trái đất” tuy vẳng lại từ ngàn xưa, song vẫn luôn luôn thúc giục tất cả mọi người của mọi thời đại và đòi hỏi phải lựa chọn, phải phân biệt thứ tự ưu tiên; đó là tất cả những gì cần thiết để giúp cho nhân phẩm được tôn trọng. Việc làm tăng giá trị cho vật chất không thể làm cho người lao động mất giá trị. Tất cả những việc trên đây bó buộc chúng ta về tinh thần phải bắt hoạt động kinh tế nằm trong một “nền trật tự về xã hội về lao động” bởi vì, dù kỹ nghệ có tiến bộ trở thành phức tạp đến đâu, vấn đề nghiên cứu tìm hiểu và các dịch vụ có được nâng cao tới mức độ nào, thì lao động vẫn phục dịch cho con người chứ con người không phục dịch cho lao động”.

“Tư bản phục vụ cho lao động chứ không phải lao động phục vụ cho tư bản”

Muốn giáo hóa, nhân bản hóa lao động ngày nay, đương nhiên phải tiến vào một cuộc tranh chấp lịch sử: tranh chấp giữa lao động với tư bản. Lòng tin vào một Đấng Tạo Hóa nền tảng của một trật tự xã hội và văn hóa, một quyền của quốc gia và quốc tế, đi ngược lại với những “giáo điều” của chủ thuyết tự do, thứ chủ thuyết giao phó việc giải quyết các mối tương quan của loài người cho hệ thống trao đổi tài chánh. Thứ chủ thuyết tự do này làm giàu thêm cho một số nhỏ những người nắm giữ những phương tiện sản xuất và làm nghèo thêm, cả về tài chánh lẫn văn hóa, các người lao động. Sự cách biệt lợi nhuận của một số và đồng lương của những người khác, giữa sự an toàn của những người này và sự bất ổn của một số khác,tất nhiên sẽ gây ra một cuộc tranh chấp xã hội kinh tế. Đó là bối cảnh của thế kỷ chúng ta. Hơn thế nữa, với sự bất bình đẳng giữa hai miền Bắc và Nam của trái đất, tình trạng căng thẳng từ nay bao trùm toàn thể thế giới.

Tại đây, Đ.G.H không muốn tự giam mình trong khung cảnh những tranh luận về ý thức hệ giữa chế độ tự do và chế độ Mác Xít; cả hai chế độ đều có cùng một ngộ nhận, và tùy theo những bức thiết của sản xuất hoặc chính trị, cũng đều đi đến chỗ làm thu hẹp nhãn giới của con người và nhân phẩm của họ. Muốn thành lập một tổ chức xã hội, trong phạm vi một xí nghiệp hoặc trên bình diện thế giới, và thành lập trên tinh thần đạo đức của con người, phải tìm cách định giá lại các hệ thống mậu dịch, sản xuất và hùn vốn.

Người ta không thể tách rời tư bản với người lao động. Tư bản không phải là một chủ thể, một quyền lực hoàn hành tự do không đếm xỉa đến những gì nó sản xuất lợi ích vô danh để chỉ huy vận mệnh của loài người. Các người lao động phải được quyền ưu tiên trong việc quản trị một xí nghiệp, nếu không chế độ kinh tế đó sẽ nuôi dưỡng bất công và hợp pháp hóa những hành động bóc lột nhiều hình thức để rồi nô lệ hóa người lao động. Và sau đây là hai hậu quả cụ thể cực kỳ quan trọng:

1. Trước hết, về phương diện quyền tư hữu đối với các phương tiện sản xuất. Theo giáo lý truyền thống của Giáo Hội, quyền tư hữu không phải là một quyền tuyệt đối và bất khả xâm phạm. Tất cả mọi sở hữu đều tùy thuộc và việc sử dụng chung và vào mục đích phổ quát của các của cải; quyền sở hữu đối với các phương tiện sản xuất chỉ có ý nghĩa nếu nó phụ thuộc vào lao động và bảo đảm được viễn ảnh việc sử dụng chung. Trên danh nghĩa đó, phải nói là nguồn mạch của nhiệm vụ hơn là quyền lợi. Ở đây, quan điểm của thứ chế độ “tư bản cứng nhắc” trong đời sống kinh tế, là một quan điểm không thể chấp nhận được.

2. Thứ đến, về phương diện quyền sở hữu tập thể đối với các tư liệu sản xuất, Đức Giáo Hoàng không dùng danh từ “Quốc hữu hóa”, mà dùng danh từ “Xã hội hóa”. Ngài cho rằng đó là việc hợp pháp đối với một số các tư liệu sản xuất, nhất là vì tư bản luôn luôn được gia tăng thêm nhờ hành động. Nguyên việc “Quốc gia hóa” các phương tiện sản xuất hoàn toàn không đủ đảm bảo cho sự công bằng và cho nhân tính của lao động, vì một số nhóm người có thể bóc lột các người lao động, nhân danh một thứ tư bản của Nhà Nước, một thứ chế độ cướp mất óc sáng kiến và phẩm cách của người lao động qua mạng lưới của một thứ chế độ văn hóa quan liêu.

Tư bản là để phục dịch cho con người. Như thế có nghĩa là người lao động phải có khả năng khuất phục được tư bản nhân danh một quan niệm cá nhân và nhân bản về hoạt động của họ và nhờ vào những cơ cấu có tính cách đồng trách nhiệm khiến họ ý thức rằng: họ “làm việc cho chính mình”…

Những liên đới về lịch sử

Đức Gioan Phaolô II cho rằng “sự phản ứng chống lại chế độ bất công và tác hại mà tiếng kêu báo oán thấu tới trời” trong buổi đầu của chế độ tư bản là một phản ứng chính đáng về phương diện đạo đức xã hội. Phong trào thợ thuyền, xuất phát từ phản ứng đó, được coi như việc người ta ý thức về quyền người lao động. Tinh thần liên đới này đã tạo ra những biến đổi sâu xa trong công việc phân phối và các điều kiện của lao động. Đức Giáo Hoàng xác định rằng những quyền lợi khách quan của người lao động là tiêu chuẩn tương xứng và căn bản trong việc hình thành bất cứ một chế độ kinh tế nào. Về phương diện này, Ngài trình bày rất dài về các điều kiện lao động của con người trong thời đại ngày này, về chính sách quốc gia và quốc tế và những thỏa ước tập thể. Ngài xác định một cách rõ ràng hơn nữa: quyền công đoàn là một nhân quyền, quyền họp hội, một sự phấn khởi của tinh thần liên đới trong hành động và trong cuộc chung sức tranh đấu chống lại giảm giá của lao động và việc bóc lột sức lao động. Ngài ao ước trong các xí nghiệp, sự tham gia vào việc quản trị và kiểm soát sản xuất được mở rộng hơn. Mục đích của cộng đoàn, trong một diện kinh tế có khi đòi hỏi phải nhắm đến thực tại, là làm thế nào để người lao động có được chất sống, trở thành một ”hữu thể nhiều hơn”, một hữu thể mệnh danh là nhân phẩm.

Tất cả phong trào có tính chất nghiệp đoàn, thợ thuyền và nông dân này là một trong những lực hợp thành cần thiết cho một “trật tự xã hội” trong đó sự lao động, được coi như một biểu lộ của con người, phải tìm được vị trí ưu tiên của mình trong các chế độ kinh tế, dù họ là một người khuyết tật, di trú hay chỉ là một người vô sản…

Nền đạo đức học về lao động

Chúa Kitô của chúng ta là một người lao động, một người lao động chân tay. Một thứ hoạt động mà cả một thời cổ xa xưa dành cho hạng nô lệ, được Thiên Chúa chọn lấy để chứng tỏ Ngài gần gũi với loài người. Một “Giáo Hội của người nghèo”, trong cảnh cực nhọc của loài người và trong niềm hy vọng của một thế giới mới, trong lao động vất vả cũng như trong tạo dựng hân hoan, Giáo Hội thông phần với sức động lực của sự chết và phục sinh của chính Đấng hành động trong tâm hồn con người, thông phần với sự tiến bộ của thế giới, bằng uy lực của Thần Linh Chúa.

GÉRARD DEFOIS

Tổng thư ký Hội đồng Giám Mục Pháp

***

THÔNG ĐIỆP LAO ĐỘNG CỦA CON NGƯỜIGioan Phaolô II: Thông điệp lao động của con người (1)

(LABOREM EXERCENS)

CỦA ĐỨC GIÁO HOÀNG GIOAN PHAOLÔ II

Cùng anh chị em đáng kính, và các con yêu dấu

xin gửi lời chào và chúc lành Tòa Thánh.

Chính nhờ lao động mà con người kiếm ra được lương thực hằng ngày và đóng góp vào sự tiến bộ liên tục của khoa học kỹ thuật và nhất là làm cho cộng đồng xã hội anh em của mình luôn luôn thăng tiến về văn hóa và đạo đức. Danh từ “lao động” hiểu là tất cả mọi việc làm cho con người hoàn thành dưới bất cứ hình thức đặc biệt và hoàn cảnh nào; nói cách khác, giữa muôn vàn sinh hoạt phong phú mà người ta, hễ đã là người do bản tính bẩm sinh của mình vẫn có khả năng, thì tất cả hoạt động nào có thể và phải coi là công việc làm ăn, đều là lao động cả. Con người được tạo dựng theo hình ảnh giống như chính Thiên Chúa để sống trong thế giới hữu hình và được đặt trong thế giới này để làm chủ trái đất ; vì thế, ngay từ đầu con người đã được kêu gọi để lao động. Lao động là một trong những đặc tính phân biệt con người với tất cả tạo vật khác mà hoạt động, vì chỉ liên hệ với vấn đề sống còn, nên không thể được gọi là lao động. Chỉ có con người mới có khả năng lao động. Chỉ có con người mới thực hiện được lao động, và chính vì vậy, nhờ lao động, con người mới gây dựng cuộc sống mình trên trái đất. vì thế, lao động mang dấu chỉ riêng của con người và của nhân loại, dấu chỉ của một người hành động trong một cộng đồng nhân loại; và dấu chỉ đó xác định phẩm chất nội tại của họ; hiểu theo một ý nghĩa nào đó, dấu chỉ này tạo thành chính bản chất con người.

I. NHẬP ĐỀ

1. Lao động của con người. 90 năm sau Thông điệp Rerum novarum.

Vào ngày 15 tháng 5 năm nay (1981), 90 năm trôi qua kể từ ngày đức Lêô XIII, vị Giáo hoàng vĩ đại của “vấn đề xã hội”, đã ban hành bức thông điệp có tầm quan trọng quyết định bắt đầu bằng hai tiếng Rerum novarum. Vì thế tôi muốn dành tài liệu này để trình bày về lao động của con người; hơn thế nữa, tôi muốn cống hiến nó cho con người trong khung cảnh rộng lớn mênh mông của thực tại là vấn đề lao động. Quả vậy, như tôi đã nói trong bức thông điệp Redemptor homonis được công bố vào những ngày tôi bắt đầu phục vụ trên tông tòa Roma của Thánh Phêrô. “Con người là con đường đầu tiên và là con đường căn bản của Giáo Hội”. căn cứ vào mầu nhiệm khôn dò là mầu nhiệm Cứu chuộc trong Đức Kitô, chúng ta phải luôn luôn trở lại và luôn luôn tiến trên con đường ấy, tùy theo những hình thái khác nhau mà con đường ấy trình bày cho ta tất cả sự phong phú cũng như tất cả những khó khăn của đời sống con người trên trái đất.

Lao động là một trong những khía cạnh ấy, một khía cạnh thường xuyên và căn bản, luôn luôn hiện tại và không ngừng đòi hỏi chúng ta chú tâm trở lại và quyết tâm trở thành những chứng nhân. Luôn luôn có những câu hỏi mới, những vấn đề mới được đặt ra, và những vấn đề ấy luôn làm nảy sinh những niềm hy vọng mới, nhưng đồng thời cũng tạo ra niềm sợ hãi, những mối đe dọa gắn liền với kích thước căn bản của đời sống loài người; nhờ kích thước đó, sự sống con người được xây dựng mỗi ngày và tìm thấy trong đó chính phẩm giá đặc biệt của mình, nhưng đồng thời trong đó cũng bao hàm thường xuyên phần cực nhọc của con người, phần đau khổ, sự thiệt hại, sự bất công ăn rễ sâu vào đời sống mỗi quốc gia và giữa các quốc gia. Nếu quả thật con người kiếm sống bằng đôi tay , nghĩa là nuôi sống mình không những bằng lương thực nuôi thân xác mà cả bằng chất bồi dưỡng của khoa học, tiến bộ, văn minh và văn hóa, thì cũng có một điều không kém hiển nhiên là họ phải tìm kiếm lương thực ấy bằng chính mồ hôi trán của mình, nói cách khác, bằng sự cố gắng và lao nhọc bản thân giữa không biết bao nhiêu tình trạng căng thẳng tranh chấp và khủng hoảng. Những việc ấy liên kết với thực tại của lao động khiến cho đời sống của mỗi xã hội và của cả nhân loại bị xáo trộn.

Chúng ta mừng kỷ niệm 90 năm, ngày ban hành thông điệp Rerum novarum vào một lúc sắp có những phát triển của những điều kiện chuyên môn, kinh tế và chính trị, và theo nhiều nhà chuyên gia, những phát triển này sẽ có ảnh hưởng đến thế giới lao động và sản xuất không kém gì cuộc cách mạng kỹ nghệ của thế kỷ trước. Ta thấy xuất hiện những dữ kiện có tầm phổ quát như: vấn đề tự động hóa trở thành phổ biến trong nhiều lĩnh vực sản xuất, việc giá cả năng lượng và các nguyên liệu gia tăng; việc con người ý thức sâu xa hơn về tính cách hạn chế của di sản thiên nhiên của mình và tình trạng ô nhiễm quá đáng; việc có nhiều dân tộc sau bao năm bị đô hộ, nay xuất hiện trên chính trường đòi chỗ đứng cho họ và yêu cầu được hỏi ý kiến trong những quyết định có tính cách quốc tế. Những điều kiện và đòi hỏi mới đó buộc phải tổ chức và sắp xếp lại các cơ cấu kinh tế hiện nay cũng như vấn đề phân phối lao động. Nhưng tiếc thay, đối với hàng triệu người có tay nghề, những thay đổi như thế dẫn đến sự thất nghiệp, ít ra tạm thời, hoặc họ học lại một nghề mới; đối với những nước phát triển hơn, vấn đề thay đổi ấy có thể sẽ khiến cho vấn đề phúc lợi bị giảm bớt đi hoặc phát triển chậm hơn; tuy nhiên, đối với hàng triệu người sống trong cảnh khốn cùng tủi nhục và bất xứng thì những thay đổi này mang cho họ niềm an ủi và hy vọng.

Giáo Hội không có nhiệm vụ phân tách một cách khoa học những hậu quả khả dĩ có thể có của những biến đổi trên đối với đời sống của xã hội loài người, nhưng cảm thấy có bổn phận luôn nhắc nhở người ta nhớ đến phẩm giá và quyền lợi của người lao động, phải lên án những điều kiện trong đó có quyền lợi này bị vi phạm và phải đóng góp phần mình trong việc hướng những biến đổi này sao cho bảo đảm sự tiến bộ của con người và của xã hội.

2. Trong thế triển khai cơ hữu về hành động và lời giáo huấn xã hội của Giáo Hội.

Có một điều chắc chắn là: lao động là vấn đề của con người nằm ngay trung tâm của vấn đề xã hội. Trong gần trăm năm qua, kể từ ngày bức thông điệp nói trên được ban hành, các giáo huấn của Giáo Hội cũng như bao nhiêu sáng kiến mà Giáo Hội đưa ra đều hướng về đó. Khi tôi muốn chú tâm đến vấn đề lao động với những suy tư sau đây, tôi không chú ý trình bày độc đáo mà chỉ muốn trước nhất nêu rõ: những suy tư đó có liên hệ cơ hữu với tất cả truyền thống của lời giáo huấn và các sáng kiến vừa nói. Đồng thời tôi làm việc này theo hướng của Tin Mừng đã rút ra từ trong di sản của Tin Mừng cả cái cũ lẫn cái mới. Điều ta có thể chắc chắn là: lao động là vấn đề “xưa cũ”, xưa cũ không kém gì con người trên trái đất. Tuy nhiên, hoàn cảnh con người trong thế giới ngày nay, nếu căn cứ vào chẩn đoán và phân tích dưới các khía cạnh: địa lý, văn hóa, văn minh thì hoàn cảnh đó đòi hỏi chúng ta phải khám phá ra những ý nghĩa mới của lao động con người và xác định những nhiệm vụ mới phải làm, vì ở trong lãnh vực này, đó là những vấn đề đặt ra cho con người, mỗi gia đình, cho mỗi quốc gia riêng biệt, cho toàn thể nhân loại, và cuối cùng cho chính Giáo Hội.

Trong những năm qua, kể từ ngày công bố thông điệp Rerum novarum, vấn đề xã hội luôn luôn được Giáo Hội quan tâm đến. Chúng ta có nhiều chứng từ trong những tài liệu của Huấn quyền, hoặc của các vị Giáo Hoàng hoặc của công đồng Vaticanô II; chúng ta có những chứng từ nơi hàng Giám Mục; chúng ta có những chứng từ qua hoạt động của nhiều trung tâm tư tưởng và những sáng kiến tông vụ cụ thể, hoặc trên bình diện quốc tế hoặc trên bình diện các Giáo Hội địa phương. Ở đây thật khó liệt kê một cách chi tiết tất cả những hành động và việc biểu lộ sự dấn thân tận tình của Giáo Hội và của người Kitô hữu vào lãnh vực xã hội, vì chúng quá nhiều. Một trong những kết quả của công đồng là việc thành lập Uỷ ban Giáo Hoàng “Công Lý và hòa bình” (justitia et pax), một uỷ ban đã trở thành trung tâm điều hợp chính yếu trong lãnh vực này cùng với những cơ quan cùng với tổ chức tương ứng thuộc phạm vi hoạt động của Hội Đồng Giám Mục. Danh xưng của uỷ ban rất có ý nghĩa và chỉ rõ rằng vấn đề xã hội cần được giải quyết một cách toàn bộ, trong toàn thể chiều kích của nó. Việc dấn thân hoạt động cho công lý cần liên kết chặt chẽ với việc dấn thân cho hoạt động hòa bình trong thế giới hiện đại. Một bài học đau đớn khiến chúng ta phải dấn thân cả hai phương diện đó là hai trận chiến, trong 90 năm qua, đã làm đảo lộn biết bao quốc gia không những thuộc lục địa Châu Âu mà một phần của các lục địa khác nữa, đặc biệt xảy ra trong trận thế chiến thứ hai, là hiểm họa thường xuyên của một cuộc chiến tranh nguyên tử và viễn ảnh của một sự tự hủy diệt ghê gớm hậu quả của cuộc chiến tranh nầy.

Nếu chúng ta theo đúng đường hướng triển khai của các tài liệu thuộc lời giáo huấn tối cao của Giáo Hội, chúng ta sẽ thấy chính trong đó sự công khai xác nhận lối đặt vấn đề như vậy. Vị trí cốt yếu liên quan vấn đề hòa bình trên thế giới, chính là vị trí thông điệp Pacem in terris của Đức Gioan XXIII. Ngoài ra nếu xét đến phương diện biến hóa của vấn đề công lý xã hội, người ta sẽ thấy rằng, trong thời gian từ thông điệp Quadragesimo anno của Đức Piô XI, giáo huấn của Giáo Hội đặc biệt chú trọng đến việc giải quyết vấn đề thợ thuyền một cách công bằng trong khung cảnh những quốc gia riêng biệt; còn trong giai đoạn sau đó, lời giáo huấn mở rộng nhãn giới, bao quát cả thế giới. Sự phân phối không đồng đều về của cải và sự khốn cùng, hiện tượng có nhiều quốc gia , đại lục phát triển và những quốc gia, đại lục không phát triển, những sự việc ấy đòi hỏi có sự quân phân cho đều và phải tìm biện pháp làm sao cho tất cả có thể phát triển một cách công bằng. Đó là hướng đi của lời giáo huấn chứa trong thông điệp Mater et Magistra của Đức Gioan XXIII, trong hiến chế mục vụ Gaudium et Spes của Công đồng Vat.II và trong thông điệp Populorum Progressio của Đức Phaolô VI.

Thế khai triển của lời giáo huấn và hành động dấn thân của Giáo Hội trong vấn đề xã hội hoàn toàn thích ứng với sự quan sát khách quan những tình trạng thực tế. Ngày xưa, tại trung tâm vấn đề, người ta làm nổi bật vấn đề “giai cấp” còn mới đây, vấn đề “thế giới” được đưa lên hàng đầu. Vì thế, người ta không chỉ quan tâm đến cái khung cảnh giai cấp, mà người ta chú ý đến khung cảnh của những tình trạng không đồng đều, những bất công trên bình diện thế giới, và do đó, không chỉ còn chú trọng nguyên đến chiều kích của giai cấp mà chú tâm đến chiều kích thế giới của những nhiệm vụ phải làm để tiến tới một tình trạng công bằng hơn trong một thế giới hiện đại. Việc phân tách đầy đủ về tình trạng thế giới ngày nay làm nổi bật ý nghĩa trước đây của những bất công xã hội một cách hiển nhiên, sâu xa và trọn vẹn hơn, một ý nghĩa mà ngày nay phải đem làm ứng dụng vào những nỗ lực cố gắng thiết lập nền công bình trên thế giới, song không phải vì thế mà che dấu những cơ cấu tổ chức bất công, trái lại phải cứu xét và biến đổi chúng trên một bình diện, tỷ lệ phổ quát hơn.

3. Đề tài lao động, then chốt của vấn đề xã hội.

Giữa tất cả các diễn tiến này – kể cả việc chẩn đoán về thực tại xã hội khách quan cũng như lời giáo huấn của Giáo Hội trong vấn đề xã hội, một vấn đề phức tạp và đa diện – lao động của con người là vấn đề tự nhiên xuất hiện thường xuyên nhất. Hiểu theo một nghĩa riêng, nó là một thành phần cố định trong lời giáo huấn của Giáo Hội cũng như trong đời sống xã hội. Ngoài ra, trong lời giáo huấn đó, vấn đề này được lưu tâm tới từ lâu trước 90 năm qua. Quả vậy, giáo lý về xã hội của Giáo Hội bắt nguồn từ trong Kinh Thánh, bắt đầu từ Sáng Thế, và đặc biệt trong Tin Mừng và trong các văn bản của các Thánh Tông Đồ. Ngay từ đầu, giáo lý ấy nằm trong giáo huấn của Giáo Hội, trong quan niệm của Giáo Hội về con người và về đời sống xã hội, đặc biệt là trong nền đạo đức xã hội được dày công xây dựng tùy theo nhu cầu từng thời kỳ khác nhau. Di sản truyền thống này sau đó trở thành gia nghiệp và được khai triển bằng lời giáo huấn của các vị Giáo Hoàng về vấn đề xã hội hiện đại, và khởi đầu bằng thông điệp Rerum novarum. Trong phần nội dung của vấn đề này, đề tài lao động luôn được đào sâu, rọi sáng thêm mỗi ngày, nhưng căn bản bao giờ cũng vẫn là chân lý Kitô giáo mà ta có thể coi như một căn bản trường tồn.

Trong tài liệu này, chúng ta trở lại vấn đề trên – nhưng không cốt ý trình bày tất cả các khía cạnh, chúng ta không muốn nhắc lại những gì đã bao hàm trong lời giáo huấn của Giáo Hội, mà muốn làm nổi bật hơn bao giờ hết sự việc này: lao động của con người là then chốt, có lẽ là then chốt quan yếu của tất cả vấn đề xã hội, nếu chúng ta quan sát nó dưới khía cạnh lợi ích của con người. Giải quyết một vấn đề, hay nói đúng hơn giải quyết từng bước vấn đề xã hội, gặp thường xuyên và ngày càng phức tạp, là nỗ lực cố gắng “làm cho đời sống con người trở nên con người hơn”, thì vấn đề lao động của con người đúng là then chốt có tầm quan trọng chủ yếu và quyết định.

(còn tiếp)

Ban hành tại Castel Gandolfo, ngày 14.9.1981, lễ kính Thánh Giá,
năm thứ III triều đại Giáo Hoàng của tôi.

GIOAN PHAOLÔ II