Tông huấn Querida Amazonia (Amazon yêu quý)
TÔNG HUẤN HẬU THƯỢNG HỘI ĐỒNG
QUERIDA AMAZONIA (AMAZON YÊU QUÝ)
CỦA ĐỨC THÁNH CHA PHANXICÔ
GỬI DÂN CHÚA
VÀ TẤT CẢ NHỮNG NGƯỜI THIỆN CHÍ
1. Amazon yêu quý toát lên ánh rạng ngời, nét kịch tính và huyền bí của mình cho thế giới. Thiên Chúa đã ban cho chúng ta ơn trình bày vùng đất ấy một cách đặc biệt trong Thượng Hội đồng ở Rôma, từ ngày 6 đến ngày 27 tháng 10 và đã kết thúc với một Tài liệu có nhan đề: Amazon: những lối đi mới cho Giáo hội và cho một nền sinh thái toàn diện.
Ý nghĩa của Tông huấn này
2. Tôi đã lắng nghe những bài tham luận trong suốt Thượng Hội đồng và thích thú đọc những bản tường trình của các nhóm nhỏ. Qua Tông huấn này, tôi muốn trình bày những điều mà tiến trình đối thoại và phân định trong Thượng Hội đồng đã âm vang nơi tôi. Ở đây tôi sẽ không khai triển tất cả các vấn đề đã được nói đến nhiều trong Tài liệu đúc kết, cũng không hề có ý định thay thế hay lặp lại Tài liệu đó. Tôi chỉ muốn đưa ra những suy tư ngắn gọn về thực tại của vùng Amazon, một tổng hợp về những mối quan tâm lớn để giúp đỡ và định hướng cho việc tiếp nhận toàn bộ tiến trình Thượng Hội đồng cách hài hoà, sáng tạo và có hiệu quả.
3. Đồng thời tôi cũng muốn chính thức giới thiệu Tài liệu đúc kết của Thượng Hội đồng, một tài liệu có sự đóng góp của rất nhiều người am hiểu những vấn đề của vùng Amazon hơn tôi và hơn cả giáo triều Rôma, bởi vì nơi vùng đất ấy họ sống, họ đau khổ và họ yêu mến. Tôi không muốn đưa Tài liệu đúc kết vào Tông huấn này vì tôi muốn mời mọi người đọc toàn bộ Tài liệu đó.
4. Thiên Chúa muốn toàn thể Giáo hội để cho Tài liệu ấy phong phú hoá và chất vấn mình; Ngài muốn các mục tử, những người sống đời thánh hiến và các tín hữu của vùng Amazon dấn thân áp dụng và mong sao Tài liệu ấy, một cách nào đó, gợi hứng cho tất cả những người thiện chí.
Những ước mơ về Amazon
5. Vùng Amazon là một tổng thể đa dân tộc liên kết với nhau, một quần thể vĩ đại bao gồm chín quốc gia: Braxin, Bôlivia, Colômbia, Êcuađor, Guyan, Pêru, Surinam, Vênêzuêla và Guyan thuộc Pháp. Tuy nhiên, tôi cũng muốn gửi Tông huấn này cho thế giới. Tôi làm thế, một mặt, nhằm giúp thức tỉnh lòng yêu mến và mối quan tâm đến miền đất này, cũng là miền đất “của chúng ta” đồng thời mời gọi mọi người chiêm ngưỡng và nhận ra miền đất này như một huyền nhiệm thánh thiêng; mặt khác, vì sự lưu tâm của Giáo hội đến những vấn đề ở nơi này buộc chúng ta phải nhắc lại sơ lược một số vấn đề mà chúng ta không được phép bỏ qua, và có thể gợi hứng cho các khu vực khác đang phải đối mặt với những thách đố của riêng mình.
6. Tất cả những gì Giáo hội đề nghị phải được thâm nhập vào từng nơi trên thế giới theo cách thế riêng, sao cho Hiền Thê của Đức Kitô thể hiện rõ nét hơn sự phong phú vô hạn của ân sủng trong muôn hình vạn trạng. Lời rao giảng phải được nhập thể, linh đạo phải được nhập thể, cơ cấu của Giáo hội phải được nhập thể. Vì thế, trong Tông huấn ngắn gọn này, tôi xin phép trình bày bốn ước mơ lớn mà vùng Amazon truyền cảm hứng cho tôi.
7. Tôi mơ một Amazon biết đấu tranh cho quyền lợi của những người nghèo nhất, những người thổ dân, những người rốt hết, một nơi mà tiếng nói của họ được lắng nghe và phẩm giá của họ được thăng tiến.
Tôi mơ một Amazon biết bảo vệ sự phong phú về văn hoá độc đáo của nó, nơi vẻ đẹp của con người được toả sáng trong muôn ngàn hình thái khác nhau.
Tôi mơ một Amazon biết giữ gìn vẻ đẹp tự nhiên tuyệt mỹ tô điểm cho nó, giữ gìn sự sống đầy tràn chan chứa những dòng sông và những cánh rừng.
Tôi mơ những cộng đoàn Kitô hữu biết quảng đại dấn thân và nhập cuộc trong vùng Amazon, mang đến cho Giáo hội những khuôn mặt mới với những nét đặc trưng của vùng này.
CHƯƠNG MỘT. ƯỚC MƠ XÃ HỘI
8. Chúng ta ước mơ Amazon là miến đất dung nạp và thăng tiến mọi cư dân bản địa, để họ có thể ổn định một “cuộc sống tốt đẹp”. Muốn được như vậy, cần gióng lên tiếng nói ngôn sứ và dấn thân hành động vì những người nghèo khổ nhất. Bởi vì, ngay cả khi Amazon phải đối mặt với một thảm hoạ sinh thái, thì cũng cần nhấn mạnh rằng “cách tiếp cận sinh thái thực sự luôn phải là cách tiếp cận xã hội, phải đưa công lý vào các cuộc thảo luận về môi trường, để lắng nghe muôn vàn tiếng kêu la của trái đất cũng như tiếng khóc than của người nghèo”1. Chúng ta không cần một chủ nghĩa bảo thủ “chỉ quan tâm đến địa-sinh-học (biome/bioma) mà không màng chi đến người dân Amazon”2.
Bất công và tội ác
9. Quyền lợi của thực dân đã mở rộng – một cách hợp pháp và bất hợp pháp – ngành khai thác gỗ và công nghiệp khoáng sản, cùng với việc xua đuổi và gạt bỏ người dân bản địa, người sống ở ven sông và người gốc châu Phi, gây nên tiếng khóc than vang tới trời cao:
“Muôn cây xanh hỡi
Nơi ngươi cư ngụ đã bị tra tấn
Và bạt ngàn rừng xanh
Đã được mua bởi hàng vạn xác chết”3.
“Những kẻ buôn gỗ có chân trong quốc hội
và Amazon của chúng ta chẳng một ai bảo vệ […].
Đàn vẹt và bầy khỉ bị lưu lạc khắp chốn […]
Sẽ chẳng bao giờ trở về hái dẻ nơi xưa”4.
10. Điều này đã đẩy các phong trào di dân gần đây của người bản địa ra vùng ngoại vi thành phố. Nơi đó, họ không thực sự được giải thoát khỏi những bi kịch, mà còn gặp phải những hình thức nô lệ, ràng buộc, khốn khổ tệ hại hơn. Tại những thành phố ấy, với nét đặc trưng là sự bất bình đẳng, nơi cư ngụ của phần lớn người dân Amazon hiện nay, chính sách bài ngoại, nạn khai thác tình dục và nạn buôn người cùng gia tăng. Bởi thế, tiếng thét gào của Amazon không chỉ phát ra từ giữa cánh rừng, mà còn ngay giữa lòng các thành phố.
11. Chẳng cần lặp lại ở đây những phân tích sâu rộng và đầy đủ, đã được trình bày trước và trong Thượng Hội đồng. Chúng ta hãy nhớ lại ít nhất một điều đã được nghe: “Chúng tôi bị ảnh hưởng bởi các nhà buôn gỗ, các chủ trang trại và các bên môi giới khác. Chúng tôi bị đe doạ bởi các nhà kinh tế, họ thực hiện một mô hình nước ngoài trong lãnh thổ của chúng tôi. Các công ty gỗ đã vào khai thác rừng, trong khi chúng tôi bảo vệ rừng cho con cái chúng tôi, vì ở đó chúng tôi có thịt, cá, thảo dược, cây ăn trái […]. Việc xây dựng các công trình thủy điện và các dự án đường thủy tác động đến sông ngòi và đất liền […]. Chúng tôi là một vùng lãnh thổ bị đánh cắp”5.
12. Đức Bênêđictô XVI, vị tiền nhiệm của tôi đã tố cáo “môi trường Amazon bị hủy diệt và phẩm giá con người của các dân tộc sinh sống ở đó bị đe doạ”6. Tôi muốn nói thêm rằng, có rất nhiều thảm kịch liên quan đến một thứ “Amazon huyền bí” giả mạo. Được biết, trong những thập niên cuối thế kỷ vừa qua, vùng Amazon đã được xem như một khoảng trống lớn cần được xử lý, một nguồn tài nguyên nguyên sơ cần được khai thác, một vùng hoang dã bạt ngàn cần được thuần hoá. Không một ai công nhận quyền của những người dân bản địa, hoặc chỉ là phớt lờ họ như thể họ không tồn tại, hoặc như thể những vùng đất mà họ sinh sống không thuộc về họ. Ngay cả trong các chương trình giáo dục dành cho các trẻ em và thanh thiếu niên, những người bản địa đã bị coi là người xâm nhập hoặc chiếm đoạt. Cuộc sống của họ, những bận tâm của họ, cách đấu tranh để sinh tồn của họ chẳng được ai quan tâm. Họ bị coi là một trở ngại cần phải loại bỏ hơn là những con người có phẩm giá và có các quyền như bất cứ người nào khác.
13. Một số khẩu hiệu đã góp phần vào sự mập mờ này, trong đó có khẩu hiệu “không nhượng bộ”7, như thể sự chiếm đoạt chỉ có thể là do các nước ngoài; trong khi chính quyền địa phương, lấy cớ phát triển, đã tham gia vào các hiệp ước để hủy diệt rừng cùng muôn loài sinh sống trong đó một cách vô tội vạ và không giới hạn. Những người dân bản địa đã nhiều lần bất lực chứng kiến sự tàn phá môi trường tự nhiên này, vốn là nơi cung cấp thực phẩm, chữa bệnh, sinh tồn và bảo tồn lối sống cũng như một nền văn hoá mang bản sắc và ý nghĩa đối với họ. Chênh lệch quyền lực là rất lớn, kẻ yếu thế không có phương tiện để tự vệ, trong khi người chiến thắng vẫn tiếp tục lấy đi mọi thứ. “Người nghèo vẫn hoàn nghèo, trong khi người giàu ngày càng giàu hơn”8.
14. Các doanh nghiệp, quốc gia hay quốc tế, hủy diệt vùng Amazon và không tôn trọng quyền của các dân tộc bản địa trên lãnh thổ với ranh giới của họ, quyền tự quyết và được thoả thuận trước của họ, như vậy phải gọi đúng đó là những bất công và tội ác. Khi một số công ty dễ dàng chiếm dụng đất và dẫn đến việc tư nhân hoá ngay cả nước uống, hoặc khi chính quyền bật đèn xanh cho các ngành công nghiệp gỗ, các dự án khai thác mỏ hoặc dầu khí và các hoạt động khác tàn phá rừng và gây ô nhiễm môi trường, thì các mối quan hệ kinh tế bị biến thái nghiêm trọng và trở thành công cụ hủy diệt. Họ thường sử dụng các biện pháp phi đạo đức, như trừng phạt các cuộc biểu tình và thậm chí tước đoạt mạng sống của người dân bản địa chống đối các dự án; họ cố tình gây cháy rừng, hoặc hối lộ các chính trị gia và cả những người dân bản địa. Cùng với điều này là việc vi phạm nghiêm trọng quyền con người và những hình thức nô lệ mới, cách riêng đối với người phụ nữ, nạn buôn bán ma túy được sử dụng cố ý để thống trị người dân bản địa, hoặc nạn buôn người muốn lợi dụng những người bị xua đẩy khỏi bối cảnh văn hoá của họ. Chúng ta không thể cho phép toàn cầu hoá trở thành “một kiểu thực dân mới” 9.
Phẫn nộ và xin tha thứ
15. Cần phải biết phẫn nộ10, như Môsê đã phẫn nộ (cf. Xh 11,8), như Chúa Giêsu đã phẫn nộ (cf. Mc 3,5), như Thiên Chúa đã phẫn nộ trước sự bất công (cf. Am 2,4-8; 5,7-12; Tv 106,40). Thật là điều không tốt khi chúng ta xơ cứng trước sự ác, chúng ta không được phép để lương tâm tê liệt trước vấn đề xã hội, trong khi “những khai thác hoang phí và chết chóc trong các vùng đất của chúng ta […] gây nguy hiểm cho sự sống của hàng ngàn người và đặc biệt là môi trường sống của nông dân và người bản địa”11. Những câu chuyện về sự bất công và tàn ác xảy ra trong vùng Amazon, diễn ra trong thế kỷ trước, đã khơi dậy một phản kháng sâu xa, và đồng thời cũng khiến chúng ta nhạy cảm hơn trong việc nhận ra những hình thức bóc lột, lạm dụng quyền lực và giết người hiện nay. Liên quan đến quá khứ đáng xấu hổ, chúng ta ghi nhận, như ví dụ điển hình, một chuyện kể về những nỗi khốn khổ của người dân bản địa trong thời khai thác cao su ồ ạt thuộc khu vực Vênêzuêla vùng Amazon: “Họ không trả tiền cho người bản địa, mà chỉ trả bằng hàng hoá với giá cao, mà người dân không bao giờ dứt được nợ […]. Hoặc họ trả tiền, nhưng nói với người bản địa rằng: “Anh có một khoản nợ khổng lồ”, và người bản địa phải quay lại làm việc cho họ […]. Hơn hai mươi ngôi làng ye’kuana đã hoàn toàn bị phá hủy. Phụ nữ ye’kuana đã bị hãm hiếp và bị cắt hết ngực, các phụ nữ mang thai phải phá bỏ. Đàn ông bị cắt các ngón tay hoặc ngón cái để không thể chèo thuyền được, […] cùng những cảnh tượng khác tàn bạo hết sức phi lý”12.
16. Lịch sử đau thương và đáng chê trách này không dễ được chữa lành. Và chính sách thực dân không hề ngưng nghỉ, mà biến thể ở một số nơi, được ngụy trang và che giấu,13 và vẫn thống trị cuộc sống của người nghèo và tàn phá môi trường. Các Giám mục Braxin ở Amazon đã lưu ý rằng “lịch sử của Amazon cho thấy, luôn luôn chỉ có một thiểu số hưởng lợi từ sự nghèo đói của đa số và từ sự cướp bóc vô đạo đức tài nguyên thiên nhiên của khu vực, vốn là quà tặng Chúa ban cho các dân tộc sinh sống ở đó từ những ngàn năm qua, và cho những người nhập cư vào những thế kỷ trước”14.
17. Trong khi có thể bày tỏ phẫn nộ cách lành mạnh, hãy nhớ rằng chúng ta luôn có thể thắng vượt các hình thức não trạng thực dân hoá để xây dựng những mạng lưới liên đới và phát triển. “Thách đố của chúng ta là làm sao bảo đảm việc toàn cầu hoá trong sự liên đới, một toàn cầu hoá mà không loại trừ”15. Có thể có các lựa chọn thay thế như: chăn nuôi và nông nghiệp bền vững, tạo nguồn năng lượng không gây ô nhiễm, nguồn lao động xứng hợp không tác động đến sự hủy diệt môi trường và văn hoá. Đồng thời, phải bảo đảm cho người bản địa và người nghèo nhất được hưởng nền giáo dục phù hợp, nhằm phát triển khả năng và giá trị của họ. Đây chính là những mục tiêu mà các nhà chính trị khôn ngoan và chân chính phải nhắm tới. Vấn đề không phải là làm sao phục hồi sự sống cho nạn nhân vốn đã chết, cũng không phải là bồi thường cho những người sống sót sau những vụ thảm sát đó, mà là làm thế nào để hôm nay chúng ta thực sự sống cách nhân bản nhất.
18. Như thế thật đáng để nhắc lại, trong hoàn cảnh thực dân hoá hết sức nghiêm trọng đầy “những mâu thuẫn và thương tổn”16, của vùng Amazôn, vẫn có rất nhiều những nhà truyền giáo mang Tin Mừng đến, họ bỏ lại quê hương mình và chấp nhận một cuộc sống khắc khổ và khó khăn, ở bên cạnh những người dễ bị tổn thương nhất. Chúng tôi biết không phải tất cả họ là những người mẫu mực, nhưng công việc của những người trung thành với Tin Mừng cũng đã gợi hứng thiết lập “một đạo luật như Luật về cư dân bản địa, là luật bảo vệ phẩm giá của người bản địa, chống lại mọi lạm dụng đối với người dân và lãnh thổ của họ”17. Chính các linh mục thường là những người bảo vệ người bản địa khỏi những kẻ tấn công và trục lợi. Đó là lý do các nhà truyền giáo thuật lại rằng: “Họ nài nỉ chúng tôi đừng bỏ họ và họ buộc chúng tôi hứa sẽ trở lại”18.
19. Ngày nay, Giáo hội không thể xem nhẹ sự dấn thân và Giáo hội được mời gọi lắng nghe tiếng kêu của người dân Amazon “để có thể thực hiện một cách sáng tỏ vai trò ngôn sứ của mình”19. Đồng thời, chúng ta không thể phủ nhận lúa đã bị trộn lẫn với cỏ lùng và các nhà truyền giáo không phải lúc nào cũng đứng về phía người bị áp bức. Tôi xấu hổ vì điều đó và một lần nữa “tôi khiêm tốn cầu xin tha thứ, không chỉ vì những xúc phạm của chính Giáo hội, mà còn vì các tội ác chống lại người thổ dân trong thời gian được gọi là cuộc chinh phục châu Mỹ”20 và tha thứ cho các tội ác ghê tởm trong suốt lịch sử của Amazon. Tôi cám ơn các thành viên của các dân tộc bản địa, và tôi nhắc lại một lần nữa: “Anh chị em cùng với cuộc sống của anh chị em là một tiếng kêu thấu đến lương tâm […]. Anh chị em là ký ức sống động về sứ mệnh mà Thiên Chúa đã trao cho tất cả chúng ta: hãy bảo vệ Ngôi Nhà chung”21.
Ý thức cộng đồng
20. Cuộc đấu tranh xã hội hàm chứa một khả năng sống huynh đệ, một tinh thần hiệp thông giữa con người với nhau. Tinh thần đó không làm giảm tính chất quan trọng của tự do cá nhân, ở đây ta nhận thấy các dân tộc bản địa Amazon có một ý thức cộng đồng mạnh mẽ. Mọi sinh hoạt của họ như “làm việc, nghỉ ngơi, tương quan, thực hành nghi lễ và các cử hành, tất cả đều được chia sẻ, vì thế, những không gian riêng tư, tiêu biểu của lối sống hiện đại, là tối thiểu. Cuộc sống là một hành trình cộng đồng, trong đó bổn phận và trách nhiệm được phân phối và chia sẻ theo lợi ích chung. Người ta không có quan niệm một cá nhân lại tách biệt khỏi cộng đồng hoặc lãnh thổ của họ”22. Các mối quan hệ nhân văn được hoà quyện trong khung cảnh thiên nhiên, vì họ cảm nhận và hiểu rằng đó là một thực tại hài hoà với xã hội và văn hoá, như một sự nối dài của thân thể cá nhân, gia đình và cộng đồng của họ.
“Sao mai kia tiến đến thật gần
Những chú chim ruồi vồ vỗ cánh bay
Trái tim tôi lay mạnh như thác nước đổ
Đất bổ tôi tưới bằng đôi môi bạn
Hồ hởi tung tăng gió đùa với ta”23.
21. Điều đó càng làm cho người thổ dân cảm thấy hoang mang và khó chịu vì bị trốc cội rễ khi họ bị buộc phải di cư đến thành phố để sinh sống. Họ cố gắng để sống giữa một môi trường đối nghịch, gượng ép giữa những người dân thành thị với những tập quán mang tính riêng tư cá thể. Làm thế nào để chữa lành một tổn thương nghiêm trọng như thế? Làm sao để xây dựng lại cuộc sống của những con người đã bị nhổ tận gốc? Trước thực tế đó, chúng ta phải biết quý trọng và cộng tác với tất cả những nỗ lực của các tổ chức xã hội, nhằm bảo tồn các giá trị và lối sống của dân bản địa, cũng như giúp họ hoà nhập vào các bối cảnh mới mà không đánh mất chính mình, thay vào đó, đóng góp cho lợi ích chung.
22. Đức Kitô đã cứu độ con người toàn thể, Người muốn khôi phục nơi mỗi người khả năng sống tương quan với những người khác. Tin Mừng trao ban cho ta tình yêu Thiên Chúa tuôn tràn từ Trái Tim Đức Kitô, là một tình yêu thúc đẩy chúng ta tìm kiếm công lý, vốn không tách biệt với tình huynh đệ và liên đới, thúc đẩy thăng tiến nền văn hoá gặp gỡ. Sự khôn ngoan theo lối sống của các dân bản địa, mặc dầu còn nhiều giới hạn, thúc đẩy chúng ta đào sâu khát vọng này. Vì lẽ đó, các Giám mục Êcuađor đã kêu gọi xây dựng “một hệ thống xã hội và văn hoá mới, ưu tiên cho những tương quan huynh đệ, trong khuôn khổ công nhận và quý trọng các nền văn hoá và hệ sinh thái khác nhau, có khả năng chống lại mọi hình thức kỳ thị và thống thị của con người đối với con người”24.
Các cơ chế xuống cấp
23. Trong Thông điệp Laudato si’, tôi đã lưu ý rằng “ Nếu mọi sự đều liên kết với nhau, thì tình trạng các cơ chế của một xã hội cũng ảnh hưởng nhiều đến môi trường và phẩm chất cuộc sống con người […]. Trong từng cấp bậc xã hội và giữa các cấp bậc ấy, các định chế chi phối các mối liên hệ con người được phát triển. Bất cứ điều gì thuộc định kiến thấm nhiễm trong các thể chế đó đều có hậu quả tai hại: đánh mất tự do, gây ra bất công và bạo lực. Nhiều quốc gia bị chi phối bởi một hệ thống thể chế bấp bênh, phải trả giá bằng sự đau khổ của người dân”25.
24. Tình trạng các tổ chức xã hội dân sự ở Amazon như thế nào? Tài liệu làm việc của Thượng Hội đồng thu thập những đóng góp của nhiều người và nhiều nhóm thuộc vùng Amazon, trong đó người ta nói đến “một nền văn hoá được tạo ra như thế là để đầu độc Nhà nước và các định chế của nó, thấm nhiễm mọi tầng lớp xã hội, kể cả các cộng đồng bản địa. Đây thực sự là một tai hoạ đạo đức; kết quả là họ không còn tin vào các định chế và các đại diện của họ, nền chính trị và các tổ chức xã hội hoàn toàn mất uy tín. Các dân tộc Amazon không xa lạ gì với nạn tham nhũng và họ cũng trở thành nạn nhân chính của tham nhũng26.
25. Chúng ta không loại trừ khả năng có thể các thành viên của Giáo hội cũng tham dự vào mạng lưới tham nhũng, đến mức đôi khi chấp nhận im lặng để đổi lấy những trợ giúp kinh tế cho các công trình của Giáo hội. Về vấn đề này, các đề nghị đã được gửi tới Thượng Hội đồng kêu gọi “đặc biệt chú ý đến nguồn gốc của các quyên góp hoặc các loại phúc lợi khác, cũng như các khoản đầu tư từ các tổ chức Giáo hội hoặc từ các Kitô hữu”.27
Đối thoại xã hội
26. Vùng Amazon cũng phải là nơi của đối thoại xã hội, đặc biệt giữa các dân tộc bản địa khác nhau, để có được những cách thức sống hiệp thông và liên minh đấu tranh. Còn chúng ta và tất cả những người khác, được mời gọi tham gia với tư cách là “những vị khách”, để tìm kiếm những phương thế gặp gỡ dựa trên sự tôn trọng cao nhất, hầu làm cho vùng Amazon được phong phú. Nhưng nếu muốn đối thoại, chúng ta phải làm điều này trước hết với những người nghèo. Họ không phải là đối tác nào đó cần thuyết phục, cũng không phải là khách thể trong bàn đàm phán. Họ là những tác nhân đối thoại chính yếu, những người mà trước hết chúng ta phải học hỏi, phải lắng nghe vì nghĩa vụ công lý và những người mà chúng ta phải xin phép để có thể từ đó đề xuất ý kiến của chúng ta. Những lời họ nói, những hy vọng, những e ngại của họ phải là tiếng nói mạnh mẽ nhất trong bất cứ bàn đàm phán nào về Amazon; và câu hỏi quan trọng ở đây là: họ hình dung như thế nào về cuộc sống tốt đẹp cho chính họ và con cháu họ?
27. Đối thoại không được rút gọn chỉ còn là việc chọn lựa ưu tiên cho việc bảo vệ người nghèo, người bị gạt ra bên lề xã hội và bị loại trừ, nhưng phải kính trọng họ như những nhân vật chính. Đây là việc nhìn nhận người khác và quý trọng họ “như họ là tha nhân” khác với ta, họ vốn có cảm thức riêng, ý kiến riêng, cách sống và cách làm việc riêng. Nếu không, hậu quả, như xưa nay, sẽ là “một kế hoạch do một ít người soạn cho một ít người”28, khi không có “một sự đồng thuận trên giấy tờ hay một thứ hoà bình tạm bợ cho một thiểu số mãn nguyện”29. Nếu xảy ra như thế, thì “cần gióng lên tiếng nói ngôn sứ”30 và người Kitô hữu chúng ta được mời gọi giúp mọi người nghe được tiếng nói đó.
Từ đây, nảy sinh ước mơ tiếp theo.
CHƯƠNG II. ƯỚC MƠ VĂN HOÁ
28. Điều chúng ta nhắm đến là thăng tiến vùng Amazon, tuy nhiên điều này không có nghĩa là thực dân hoá vùng đó về mặt văn hoá, nhưng là giúp nó thể hiện những gì tốt đẹp nhất của mình. Đây chính là điều mà một công trình giáo dục tốt phải làm: vun trồng mà không làm bật rễ, làm cho phát triển mà không làm yếu đi bản sắc, trợ lực mà không xâm lấn. Cũng như trong thiên nhiên có những tiềm năng có thể bị mất đi vĩnh viễn, cũng thế điều đó có thể xảy ra đối với các nền văn hoá mà tiếng nói của họ chưa được lắng nghe và ngày nay đang bị đe doạ hơn bao giờ hết.
Khối đa diện vùng Amazon
29. Vùng Amazon là nơi có nhiều chủng tộc và quốc gia khác nhau đang sinh sống, trong đó có hơn 110 sắc dân bản địa đang duy trì lối sống biệt lập tự phát31. Họ sống trong tình trạng rất bấp bênh, nhiều người cảm thấy họ là những người cuối cùng nắm giữ kho tàng văn hoá sắp biến mất của sắc tộc mình, như thể họ chỉ được phép sống còn nếu không gây phiền phức, trong khi việc thực dân hoá thời hậu hiện đại đang bành trướng. Không được xem họ như là dân man di “kém văn minh”; cách đơn giản họ chỉ là hậu duệ của những nền văn hoá khác và của những nền văn minh khác vốn rất phát triển trước đây32.
30. Trước thời thực dân, thổ dân thường tập trung dọc bên các bờ sông và bờ hồ, nhưng tiến trình thực dân hoá diễn ra, đã đẩy những cư dân lâu đời này chạy sâu vào rừng. Ngày nay, tiến trình đô thị hoá (biến đất trồng trọt thành đất ở) lại một lần nữa đẩy phần lớn họ ra những vùng ven của thành phố, vào những nơi nghèo khổ cùng cực, nhưng tệ hơn là gây ra sự gãy nứt nội tại nơi cộng đồng của họ qua việc làm mất đi những giá trị đã từng nâng đỡ họ từ trước đến nay. Trong bối cảnh đó, họ thường bị mất các điểm tham chiếu, mất đi những gốc rễ văn hoá, vốn là cội nguồn cho căn tính và ý thức về phẩm giá của họ; rồi dần dà họ bị đẩy ra thành tầng lớp cùng đinh, đứng ngoài lề xã hội. Điều này cắt đứt dòng chảy của sự khôn ngoan vốn được chuyển trao trong văn hoá của họ qua các thế kỷ, từ thế hệ này sang thế hệ khác. Các thành phố, vốn dĩ phải là nơi mà các nền văn hoá khác nhau gặp gỡ, trao đổi và làm cho nhau phong phú hơn, lại trở thành nơi đào thải tàn nhẫn những cuộc đời đau thương.
31. Mỗi sắc tộc còn tồn tại ở vùng Amazon đều có căn tính văn hoá riêng và đóng góp những nét phong phú độc đáo cho thế giới đa văn hoá của chúng ta; điều này có được là do các thổ dân sống gần gũi với môi trường thiên nhiên của họ, một sự cộng sinh hài hoà mà não trạng của những người ngoài cuộc không thể hiểu được:
“Thuở xưa đã từng có một miền quê êm ả với dòng sông, muông thú, mây trời và cây cỏ.
Nhưng hôm nay có khi miền quê với dòng sông và cỏ cây ấy không còn nữa,
Thì cậu bé phải hình dung những thứ đó trong trí tưởng”33.
“Hãy biến dòng sông thành máu của bạn…
rồi gieo trồng mình xuống mảnh đất này,
đâm chồi nẩy lộc và lớn lên.
Hãy đâm rễ sâu vào lòng đất,
mãi mãi,
để rồi thành một chiếc ghe, một con thuyền, một cái bè,
thành cây leo, một cái bình sành,
một gia trang và một con người”34.
32. Các nhóm người, lối sống và tầm nhìn của họ đa dạng như chính mảnh đất họ sống vậy, bởi vì họ phải thích nghi với địa hình, địa lý và các tài nguyên của đất. Ngư dân không giống như thợ săn, nông dân vùng lục địa khác với nông dân vùng duyên hải. Ngay cả ngày nay, chúng ta thấy ở Amazon có hàng ngàn cộng đồng thổ dân khác nhau, hậu duệ của những người đến từ châu Phi, sống trên các con sông hay tại các thành phố, rất đa dạng và độc đáo. Nơi mỗi vùng đất với đặc điểm riêng của nó, Thiên Chúa tự mặc khải cho ta thấy một phần vẻ đẹp khôn tả của Ngài. Mỗi nhóm người, sống hài hoà với môi trường xung quanh, phát triển sự khôn ngoan cách riêng biệt. Chúng ta là những người quan sát từ bên ngoài, nên tránh những nhận định khái quát bất công, theo kiểu “vơ đũa cả nắm”, những lập luận quá ngây ngô và những kết luận dựa trên não trạng và kinh nghiệm chủ quan của mình.
Quan tâm chăm sóc cội nguồn
33. Ở đây tôi muốn chỉ ra rằng “một cách nhìn về con người theo lăng kính tiêu thụ, bị ảnh hưởng bởi cơ chế kinh tế toàn cầu hoá ngày nay, có tác hại cào bằng các nền văn hoá, làm giảm thiểu sự đa dạng về văn hoá vốn là kho tàng của nhân loại”35. Điều này ảnh hưởng trước hết đến người trẻ, bởi vì nó “làm biến mất những khác biệt về nguồn gốc của họ và thao túng họ như những món hàng của dây chuyền sản xuất hàng loạt”36. Để tránh xu hướng làm nghèo nàn hoá con người như thế, ta cần phải yêu mến và bảo vệ các cội nguồn, vì đó là “điểm tựa giúp ta lớn lên và đối diện với các thách đố mới”37. Cha mời gọi các bạn trẻ vùng Amazon, nhất là các bạn thổ dân, hãy “đảm nhận lấy cội nguồn của mình, vì nó cho các con sức mạnh để lớn lên, phát triển và sinh hoa trái”38. Riêng với các bạn đã nhận Phép Thánh Tẩy, cội nguồn của các con bao gồm lịch sử của dân Israel và lịch sử của Giáo hội cho tới ngày nay. Hiểu biết về các lịch sử đó làm cho các con có niềm vui và hy vọng, từ đó các con được gợi hứng để có những hành động bạo dạn và cao quý.
34. Qua các thế kỷ, các cư dân vùng Amazon đã lưu truyền sự khôn ngoan của họ bằng cách truyền khẩu, với những huyền thoại và những câu chuyện; điển hình là có “những người sơ khai chuyên kể chuyện, đi xuyên các cánh rừng, mang những câu chuyện đi từ làng này tới làng nọ, giữ cho sức sống cộng đoàn được tiếp tục tuôn chảy; bởi vì, nếu không có những câu chuyện đó, có tác dụng như là dây rốn thông truyền sức sống, thì khoảng cách và việc thiếu thốn truyền thông sẽ làm cho cộng đoàn họ bị phân mảnh và tan biến”39. Đó là lý do tại sao cần “để cho người già kể những câu chuyện dài”40 và để cho giới trẻ có thời gian kín múc sức sống từ các câu chuyện đó.
35. Mặc dù kho tàng văn hoá đó ngày càng có nguy cơ bị đánh mất, nhờ ơn Chúa, trong những năm gần đây, nhiều bộ tộc đã bắt đầu viết lại những câu chuyện và mô tả ý nghĩa của các tập tục của họ. Bằng cách này, chính họ nhận thức minh nhiên rằng có điều gì đó quan trọng hơn cả căn tính chủng tộc, rằng họ là những người lưu giữ những ký ức cá nhân, gia đình và tập thể, vốn rất quý báu cho toàn thể nhân loại. Tôi rất vui khi thấy rằng nhiều người, sau khi đã mất nối kết với cội nguồn của mình, đang đi tìm khôi phục lại những ký ức bị thương tổn. Thêm vào đó, giới chuyên môn ngày càng ý thức rõ hơn về căn tính độc đáo của vùng Amazon, và đối với họ, thường là hậu duệ của những người di dân, vùng Amazon đã trở thành nguồn cảm hứng của nghệ thuật, văn chương, âm nhạc và văn hoá. Những loại hình nghệ thuật khác nhau, đặc biệt là thơ ca, đã lấy cảm hứng từ nước và rừng của vùng đất này; từ sức sống âm thầm nhưng mãnh liệt, cũng như từ sự đa dạng văn hoá và những thách đố về sinh thái và xã hội của nó.
Cuộc hội ngộ liên văn hoá
36. Như mọi thực tại văn hoá, những văn hoá nằm sâu trong vùng Amazon cũng có những giới hạn của mình. Những văn hoá đô thị Tây phương cũng vậy. Các yếu tố như chủ nghĩa tiêu thụ, chủ nghĩa cá nhân, sự kỳ thị, sự bất bình đẳng và nhiều điều khác, đã cấu thành mặt tối của các nền văn hoá được xem là phát triển. Các thổ dân, những người xây dựng kho tàng văn hoá của mình rất gắn bó với thiên nhiên, với một cảm thức cộng đồng mạnh mẽ, rất dễ nhận ra mặt tối của chúng ta, điều mà ta không nhận ra vì nghĩ rằng mình tiến bộ hơn họ. Vì thế, lắng nghe, học hỏi từ kinh nghiệm sống của họ rất có ích cho chúng ta.
37. Khởi đi từ cội nguồn của chính mình, chúng ta cùng ngồi vào bàn để trò chuyện và chia sẻ niềm hy vọng với những người khác. Bằng cách này, sự khác biệt, vốn có thể là một thứ cờ hiệu hay biên giới, lại được biến thành chiếc cầu nối. Căn tính và đối thoại không mâu thuẫn nhau. Căn tính văn hoá của ta được đào sâu và trở nên phong phú nhờ vào việc đối thoại với những người thuộc văn hoá khác; cô lập chính mình không thực sự bảo toàn căn tính mà làm nghèo nàn đi. Vì thế, tôi không đề nghị một chính sách bảo vệ thổ dân khép kín, phi lịch sử, cứng nhắc, từ chối mọi hình thức hợp lưu. Một nền văn hoá có thể trở nên cằn cỗi khi “tự cô lập chính mình và tìm cách duy trì hình thái sống cũ kỹ, từ chối mọi cuộc trao đổi hay tranh luận về chân lý của con người”41. Nỗ lực như thế dường như không thực tiễn, vì ta rất khó tránh các cuộc xâm lấn văn hoá. Vì thế, quan tâm chăm sóc các giá trị văn hoá của các nhóm thổ dân phải là trách nhiệm của tất cả chúng ta, vì sự phong phú của họ cũng là của chúng ta. Nếu không tiến bộ trong tinh thần đồng trách nhiệm này để bảo vệ sự phong phú của nhân loại, chúng ta không thể đòi các nhóm thổ dân sống sâu trong rừng phải ngây thơ mở ra với “nền văn minh” của chúng ta, để rồi bị nuốt chửng và tan biến.
38. Ở vùng Amazon, ngay cả giữa các bộ tộc bản địa khác nhau, vẫn có thể phát triển “các mối tương quan liên văn hoá, nơi mà sự đa dạng không bị đe doạ, cũng không là lý do biện minh cho phẩm trật quyền lực của một số người, nhưng là sự đối thoại giữa các viễn tượng văn hoá khác nhau, bằng việc cử hành, tương tác với nhau và cùng nhau hồi sinh niềm hy vọng”42.
Các nền văn hoá bị đe doạ, các dân tộc lâm nguy
39. Nền kinh tế toàn cầu hoá phá huỷ không thương tiếc sự phong phú về nhân bản, xã hội và văn hoá. Các gia đình bị phân tán như là hệ quả của các cuộc di dân cưỡng bức; điều này ảnh hưởng đến việc lưu truyền các giá trị, bởi vì “gia đình đã, đang và luôn là định chế xã hội đóng góp nhiều nhất cho việc giữ gìn văn hoá”43. Hơn nữa, “đối diện với sự xâm lăng của các phương tiện truyền thông đại chúng”, chúng ta cần đưa ra “những hình thái truyền thông khác cho các thổ dân, dựa trên ngôn ngữ và văn hoá của họ” và cần đưa “các chủ đề liên quan đến họ lên các phương tiện truyền thông hiện hành”44.
40. Trong bất kỳ dự án nào cho vùng Amazon, “chúng ta cần tôn trọng quyền của các bộ tộc và các nền văn hoá ở đó, cũng như cần hiểu rằng sự phát triển của một cộng đồng xã hội […] đòi hỏi chính các tác nhân địa phương phải là những người đi đầu, thực hiện dự án phù hợp với nét văn hoá riêng của họ. Khái niệm về thế nào là một cuộc sống chất lượng cũng không nên bị áp đặt từ bên ngoài, nhưng cần được hiểu với cái nhìn của người trong cuộc, với cả một thế giới các biểu tượng và các tập quán của từng cộng đồng”45. Và nếu các nền văn hoá của các thổ dân mà tổ tiên họ để lại được hình thành và phát triển trong mối tương tác mật thiết với môi trường thiên nhiên xung quanh, thì họ sẽ rất khó bảo toàn văn hoá của họ nếu như môi trường bị tàn phá.
Vì thế, điều này dẫn chúng ta đến ước mơ tiếp theo.
CHƯƠNG III. ƯỚC MƠ SINH THÁI
41. Trong một thực thể văn hoá như vùng Amazon, nơi luôn có mối tương quan chặt chẽ giữa con người và thiên nhiên, thì đời sống hằng ngày luôn mang chiều kích vũ trụ. Giải phóng con người chắc chắn bao hàm việc chăm sóc và bảo vệ môi sinh46, nhưng hơn nữa nó còn là việc giúp con người mở lòng ra, tín thác vào Thiên Chúa, Đấng không chỉ tạo dựng mọi loài mà còn trao ban chính Mình nơi Đức Kitô cho con người. Thiên Chúa, Đấng săn sóc chúng ta đầu tiên, dạy chúng ta phải biết chăm sóc các anh chị em khác và chăm sóc môi trường mà Ngài ban tặng cho ta mỗi ngày. Đây là sinh thái luận đầu tiên mà ta cần có. Với vùng Amazon, chúng ta hiểu rõ hơn lời của Đức Bênêđictô XVI nói rằng “bên cạnh sinh thái luận tự nhiên có một sinh thái luận khác mà ta có thể gọi là ‘nhân linh’, đến lượt nó lại đòi hỏi một ‘sinh thái luận xã hội’. Điều này có nghĩa rằng nhân loại […] phải ý thức có mối liên hệ hiện sinh giữa sinh thái luận tự nhiên, tức là việc tôn trọng thiên nhiên, với sinh thái luận nhân linh”47. Đối với những vùng đất như Amazon thì việc nhấn mạnh rằng “mọi thứ đều có liên hệ với nhau”48 thật đúng đắn và phù hợp.
42. Việc chăm sóc con người và hệ sinh thái không thể tách rời nhau, điều này càng rõ ràng hơn nữa ở nơi mà “rừng không được coi như nguồn tài nguyên để khai thác hưởng lợi, mà là một hữu thể, hay là nhiều hữu thể mà ta phải tương tác”49. Sự khôn ngoan của các bộ tộc hoang sơ vùng Amazon “gợi hứng việc chăm sóc và tôn trọng thế giới thụ tạo, ý thức rõ rệt về các giới hạn của nó cũng như cấm lạm dụng nó. Lạm dụng thiên nhiên có nghĩa là lạm dụng các tiền nhân, các anh chị em khác, lạm dụng chính Đấng Tạo Hoá, và đánh cược tương lai”50. Các thổ dân, “khi bám trụ trên lãnh thổ của họ, là những người chăm sóc thiên nhiên tốt nhất”51, miễn là họ đừng để mình bị lừa gạt bởi những lời đường mật và những lời chào hàng nguy hiểm của các nhóm quyền lực. Việc phá huỷ thiên nhiên tác động đến họ trực tiếp và rõ ràng, vì họ nói rằng: “Chúng tôi là nước, khí, đất và là sự sống của thế giới thụ tạo của Thiên Chúa. Vì thế, chúng tôi xin các vị ngừng tàn phá và huỷ diệt Mẹ Đất. Trái đất có máu và nó đang chảy máu, các công ty đa quốc gia đã cắt các mạch máu của Đất Mẹ”52.
Ước mơ về nước
43. Trong vùng Amazon, nước là nữ vương, các con sông con suối là các mạch máu, và mọi hình thái sự sống đều bắt nguồn từ đó:
“Ở đó, khi giữa mùa hè nóng như thiêu đốt, khi những đợt gió đông cuối cùng thổi về, tan loãng vào bầu khí tù hãm, thì cái ẩm kế thay cho cái nhiệt kế trong việc báo hiệu thời tiết. Các sinh vật lệ thuộc vào sự thay đổi ác nghiệt của dòng thủy lưu các con sông lớn. Các cơn lũ lụt rất kinh khủng. Dòng sông Amazon chảy tràn bờ và chỉ trong vài ngày, đã dâng cao mực nước… Ngập lụt làm mọi thứ ngừng lại. Mắc kẹt dưới những tán lá dầy đặc của những con rạch nhỏ, con người, với một sự nhẫn nhục hiếm hoi trước nghịch cảnh không thể tránh khỏi, chỉ biết chờ đợi cái “mùa đông” nghịch lý, “mùa đông” nóng nực này cái kết thúc. Khi nước rút xuống, thì đó là mùa hè. Đó là lúc xuất hiện lại các hoạt động hoang sơ của con người những vùng này, họ chiến đấu hết sức trước một thiên nhiên có biểu lộ mâu thuẫn khốc liệt đến độ khiến cho mọi nỗ lực không thể tiếp tục”53.
44. Dòng nước lấp lánh của sông Amazon vĩ đại tiếp nhận và làm sống động mọi thứ xung quanh:
“Này Amazon hỡi,
là đầu mục các con nước,
cha và tổ phụ,
Từ Người huyền bí trường cửu
sự sống sinh sôi nảy nở;
các con sông dòng suối tụ về Người như những cánh chim bay lượn tìm về cố hương”54.
45. Sông Amazon cũng là xương sống, tạo ra sự hài hoà và thống nhất: “Dòng sông không ngăn cách chúng tôi, nó liên kết và giúp chúng tôi sống cùng nhau giữa những khác biệt về văn hoá và ngôn ngữ”55. Cái trục chính nối liền các “vùng Amazon” khác nhau là con sông Cả, nguồn của nhiều con sông khác:
“Từ đỉnh những dải núi cao, nơi mà tuyết không bao giờ tan, nước chảy xuống, vạch ra thành dòng run rẩy tưới trên tấm thân da dẻ lâu đời của đất đá: dòng sông Amazon được sinh ra. Nó được sinh ra mỗi giây phút. Nó chảy xuống chậm rãi, lấp lánh ẩn hiện quanh co, lớn dần và phình ra trên đất cát đồng bằng, dào dạt tưới đổ một không gian xanh tươi, nó tự vẽ ra con đường cho mình và tiếp tục kéo dài. Nước ngầm dưới đất vọt lên ôm lấy nước đổ xuống từ dãy núi Andes. Từ bụng những đám mây trắng ngần bị gió cuốn đi, nước đổ mưa xuống từ trời. Nước tụ lại rồi tiếp tục chảy, phân thành vô số nhánh nhỏ, tắm mát cho những cánh đồng bao la… Đây là vùng Amazon vĩ đại, bao phủ vùng đất nhiệt đới ẩm ướt bằng những cánh rừng rậm bao la rực rỡ, chưa từng bị bàn tay con người chạm đến, đập nhịp sự sống đan dệt thâm sâu bởi những mạch nước chảy ri rỉ … Từ khi con người đến sống nơi đây, từ trong lòng nước sâu thẳm, chảy ngang qua trái tim của rừng rậm, xuất hiện một nỗi e sợ khủng khiếp: rằng sự sống nơi đây đang bị bức tử, tuy chầm chậm nhưng chắc chắn”56.
46. Những nhà thơ nổi tiếng, phải lòng vẻ đẹp kỳ vĩ của vùng đất này, đã cố gắng diễn tả những cảm xúc mà dòng sông này đã gợi lên, diễn tả sự sống mà nó trao ban trong dòng chảy của nó, giữa những điệu nhảy của cá heo, trăn anaconđa, cây cối và thuyền canô. Nhưng những nhà thơ đó cũng than khóc về những nguy hiểm đang đe doạ dòng sông. Họ là những nhà chiêm niệm và ngôn sứ, giúp ta thoát khỏi lối suy nghĩ mang tính kỹ trị và tiêu thụ, vốn chỉ nhắm phá hoại thiên nhiên và tước mất của chúng ta một cuộc sống xứng với phẩm giá đích thực của mình:
“Thế giới đang đau đớn vì bàn chân con người biến thành cao su, cẳng chân thành đồ da, thân thể thành vải vóc, và đầu tóc thành sắt thép… Thế giới đang đau khổ vì mai thuổng bị biến thành súng ống, lưỡi cày thành xe tăng; hình ảnh người nông dân gieo hạt nhường chỗ cho hình ảnh những cái máy khạc lửa đạn, chỉ toàn gieo rắc hoang vu. Chỉ cung giọng nhẹ nhàng của thi ca mới có thể cứu thế giới này”57.
(còn tiếp)
Làm tại Rôma, cạnh đền thờ Gioan Latêranô,
ngày 2 tháng 2, lễ Mẹ dâng Chúa Giêsu trong Đền thờ, năm 2020,
năm thứ 7 triều Giáo hoàng của tôi.
PHANXICÔ
Nguồn: hdgmvietnam.com
------------------------------------
1 Thông điệp Laudato si’ (24/05/2015), số 49: AAS 107 (2015), tr. 866.
2 Tài liệu làm việc, số 45.
3 Ana Varela Tafur, “Timareo”, trong Lo que no veo en visions – Những gì tôi không thấy trong tầm nhìn, Lima (1992).
4 Jorge Vega Márquez, “Amazonia solitária” – Amazon cô độc, trong Poesía obrera, Cobija-Pando-Bolivia 2009, tr. 39.
5 Mạng lưới Giáo hội Toàn Amazon (REPAM), Braxin, Síntesis del aporte al Sínodo – Tổng hợp những đóng góp cho Thượng Hội Đồng, số 120: cf. Tài liệu làm việc, số 45.
6 Bài nói chuyện với các bạn trẻ, São Paulo, Braxin (10/05/2007), số 2: Insegnamenti III, 1 (2007), tr. 808.
7 Cf. Alberto C. Araújo, “Imaginario amazónico”, trong Amazonia real: amazoniareal.com.br (29/01/2014).
8 Thánh Giáo hoàng Phaolô VI, Thông điệp Populorum progressio – Phát triển các Dân tộc (26/03/1967), số 57: AAS 59 (1967), tr. 285.
9 Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, Diễn văn với Hàn lâm viện Giáo hoàng về Khoa học Xã hội (27/04/2001), số 4: AAS 93 (2001), 600.
10 Cf. Tài liệu làm việc, số 41.
11 Đại hội lần thứ V của Hội đồng Giám mục Châu Mỹ Latinh và Vùng Caribê, Tài liệu Aparecida (29/06/2007), số 473.
12 Ramón Iribertegui, Amazonas: El hombre y el caucho, xb: Đại diện Tông toà Puerto Ayacucho - Venezuela, Monografia, số 4, Caracas 1987, tr. 307tt.
13 Cf. Amarílis Tupiassú, “Amazônia, das travessias lusitanas à literatura de até agora”, trong Estudos Avançados, q. 19, số 53, São Paulo, Braxin (tháng 01/tháng 04-2005): “Thực thế, sau khi kết thúc thời kỳ thuộc địa đầu tiên, Amazon vẫn là khu vực bị thống trị bởi sự tham lam thâm căn cố đế, nay với những luận điệu mới […] của các tổ chức “văn minh”, những người thậm chí không đủ tư cách để tạo ra và nhân rộng những bộ mặt mới của guồng máy hủy diệt cũ, nay lại cho chuyển qua một cái chết từ từ”.
14 Các Giám mục Amazon vùng Braxin, Thư gửi Dân Chúa, Santarem - Braxin (06/07/2012).
15 Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, Sứ điệp Ngày Hoà Bình Thế Giới 1998, số 3: AAS 90 (1998), tr. 150.
16 Đại hội lần thứ III của Hội đồng Giám mục Châu Mỹ Latinh và Vùng Caribê, Tài liệu Puebla (23/03/1979), số 6.
17 Tài liệu làm việc, 6. Đức Giáo hoàng Phaolô III, với Đoản sắc Veritas ipsa (02/06/1537), đã lên án các văn bản phân biệt chủng tộc, nhìn nhận nhân phẩm của người bản xứ, dù họ là Kitô hữu hay không, công nhận quyền sở hữu của họ và cấm không được bắt họ làm nô lệ. Đức Thánh Cha khẳng định: “Họ là người như những người khác, […] tuyệt đối không thể bị tước đoạt tự do và quyền sở hữu của cải, kể cả những người không tin Đức Giêsu”. Giáo huấn của các Đức Giáo hoàng cũng quả quyết như thế: Grêgôriô XIV, Sắc chỉ Cum Sicuti (28/04/1591); Urbanô VIII, Sắc chỉ Commissum Nobis (22/04/1639); Bênêđictô XIV, Sắc chỉ Immensa Pastorum Principis, gửi các Giám mục Braxin (20/12/1741); Grêgôriô XVI, Đoản sắc In Supremo (03/12/1839); Lêô XIII, Epistola ai Vescovi del Brasile sulla schiavitù (05/05/1888); Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, Sứ điệp gửi người bản địa của Châu Mỹ La tinh, Santo Domingo (12/10/1992), số 2: Insegnamenti 15, 2 (1992), tr. 341-347.
18 Frederico Benício de Sousa Costa, Thư mục vụ (1909), xb: Imprenta del gobierno del Estado de Amazonas, Manaos 1994, tr. 83.
19 Tài liệu làm việc, số 7.
20 Diễn văn nhân dịp Cuộc Gặp gỡ lần thứ 11 của các Phong trào Bình dân trên Thế giới, Santa Cruz de la Sierra - Bolivia (9/7/2015): L’Osservatore Romano bản tiếng Pháp, 16/07/2015, tr. 16.
21 Diễn văn trong Cuộc gặp gỡ Các Dân tộc vùng Amazon, Puerto Maldonado - Peru (19/01/2018): L’Osservatore Romano bản tiếng Pháp, 25/01/2018, tr. 10.
22 Tài liệu làm việc, số 24.
23 Yana Lucila Lema, Tamyahuan Shamakupani (Tôi đang sống với cơn mưa), 1, tại http://siwarmayu.com/es/yana-lucila-lema-6-poemas-de-tamyawan-shamukupani-con-la-lluvia-estoy-viviendo/.
24 Hội đồng Giám mục Êcuađor, Hãy chăm sóc hành tinh của chúng ta (20/4/2012), số 3.
25 Ibid., số 142: AAS 107 (2015), tr. 904-905.
26 Ibid., số 82.
27 Ibid., số 83.
28 Tông huấn Evangelii gaudium – Niềm vui của Tin Mừng (24/12/2013), số 239: AAS 105 (2013), tr. 1116.
29 Ibid., số 218: AAS 105 (2013), tr. 1110.
30 Ibid.
31 Cf. Tài liệu làm việc, số 57.
32 Cf. Evaristo Eduardo de Miranda, Quando o Amazonas corria para o Pacífico, Petrópolis 2007, tr. 83-93.
33 Juan Carlos Galeano, “Paisajes”, in Amazonia y otros poemas, Universidad Externado de Colombia, Bogotá 2011, tr. 31.
34 Javier Yglesias, “Llamado”, in Revista peruana de literatura, số 6 (tháng Sáu 2007), tr. 31.
35 Thông điệp Laudato si’ (24/05/2015), số 144: AAS 107 (2015), tr. 905.
36 Tông huấn hậu Thượng Hội đồng, Christus vivit – Chúa Kitô đang sống (25/03/2019), số 186.
37 Ibid., số 200.
38 Sứ điệp truyền hình cho cuộc Gặp gỡ Thế giới Giới trẻ Bản địa, Soloy-Panama (18/01/2019).
39 Mario Vargas Llosa, Lời nói đầu viết cho quyển El Hablador, Madrid (08/10/ 2007).
40 Tông huấn hậu Thượng Hội đồng, Christus vivit – Chúa Kitô đang sống (25/03/2019), số 195.
41 Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, Thông điệp Centesimus annus – Bách chu niên (01/05/1991), số 50: AAS 83 (1991), tr. 856.
42 Đại hội lần thứ V của các Giám mục châu Mỹ Latinh và các nước Vùng Caribê, Tài liệu Aparecida (29/06/2007), số 97.
43 Diễn văn trong buổi gặp gỡ Các Dân tộc vùng Amazon, Puerto Maldonado, Peru (19/01/2018).
44 Tài liệu làm việc, số 123, e.
45 Thông điệp Laudato si’ (24/05/2015), số 144: AAS 107 (2015), tr. 906.
46 Cf. Bênêđictô XVI, Thông điệp Caritas in veritate – Bác ái trong chân lý (29/06/2009), số 51: AAS 101 (2009), tr. 687: “Đặc biệt trong thời đại chúng ta, thiên nhiên đã hội nhập vào sự năng động xã hội và văn hoá sâu xa đến độ không còn là dữ kiện độc lập nữa. Việc sa mạc hoá nhanh chóng và lâm vào cảnh khổ của nhiều vùng nông nghiệp là hậu quả của nghèo đói và chậm tiến của dân chúng sống nơi đó”.
47 Sứ điệp Ngày Hoà bình Thế giới 2007, số 8: Insegnamenti II, 2 (2006), tr. 776.
48 Thông điệp Laudato si’ (24/05/2015), các số 16; 91; 117; 138; 240: AAS 107 (2015), tr. 854; 884; 894; 903; 941.
49 Tài liệu Bolivia: informe país. Consulta pre-sinodal, 2019, tr. 36; Cf. Tài liệu làm việc, số 23.
50 Tài liệu làm việc, số 26.
51 Thông điệp Laudato si’ (24/05/2015), số 146: AAS 107 (2015), tr. 906.
52 Tài liệu đóng góp cho Thượng hội đồng, của giáo phận San José del Guaviare và Tổng giáo phận Villavicencio và Granada (Colombia); Cf. Tài liệu làm việc, số 17.
53 Euclides da Cunha, Los Sertones (Os Sertões), Buenos Aires 1946, tr. 65-66.
54 Pablo Neruda, “Amazonas”, trong Canto General (1938), I. IV.
55 REPAM, Doc. Eje de Fronteras. Chuẩn bị cho Thượng Hội đồng về Amazon, Tabatinga-Braxin (13/02/2019), tr. 3; Cf. Tài liệu làm việc, số 8.
56 Amadeu Thiago de Mello, Amazonas, patria da agua.
57 Vinicius de Moraes, Para vivir un gran amor, Buenos Aires (2013), tr. 166.