Lược sử Giáo hội Công giáo Việt Nam (1)

[ Điểm đánh giá5/5 ]1 người đã bình chọn
Đã xem: 5013 | Cập nhật lần cuối: 11/18/2014 1:32:45 PM | RSS

SỬ LƯỢC GIÁO HỘI CÔNG GIÁO VIỆT NAM

(1533 - 2000)

Non sông gấm vóc đất nước Đại việt đón nhận Tin Mừng cứu độ Đức Kitô từ những ngày đầu thế kỷ XVI. "Khâm Định Sử Việt Thông Giám Cương Mục " ghi nhận sự kiện: "năm Nguyên Hoà nguyên niên (1533), tháng ba, ngày. đời vua Lê trang Tôn, có người Tây Dương tên I-nê-Khu lén vào xã Ninh Cường, xã Quần Anh huyện Nam Chân, và xã Trà Lũ huyện Giao Thuỷ, âm thầm truyền bá Da Tô tả đạo (1). Năm 1533 ghi dấu vàng son, và lịch sử truyền giáo của Giáo Hội Công Giáo Việt nam có thể phân chia làm ba giai đoạn:

I. Khai sinh trong đau khổ ( thế kỷ XVI- XVII và XVIII)

II. Trưởng thành trong máu đào (thế kỷ XIX)

III. Phát triển trong phục vụ (thế kỷ XX)

Lược sử Giáo hội Công giáo Việt Nam (1)

I. KHAI SINH TRONG ĐAU KHỔ (Thế kỷ XVI - XVII - XVIII)

Thời phôi thai của Giáo Hội Việt Nam ghi dấu bước chân rao giảng Tin Mừng tại Hà Tiên của các giáo sĩ dòng Đa Minh đến từ quần đảo Malacca như Luis de Foncesca, Grégroire de la Motte và Gaspar de Santa Cruz vào năm 1550. Tại Đàng Ngoài, các giáo sĩ Diego Doropesa, Bartolomeo Ruiz, Pedro Ortiz, Francisco de Montila và bốn trợ sĩ đến từ tỉnh dòng Đa Minh Phi luật tân, truyền đạo tại vùng An Quảng (Quảng Yên), năm 1583.

Tại Đàng Trong, mùa xuân 1615, hai giáo sĩ Francesco Buzomi, Diego Carvalho và ba trợ sĩ Dòng Tên cập bến Cửa Hàn, Quảng Nam để rao truyền Tin Mừng, dưới quyền Chúa Nguyễn cát cứ. Những thế hệ tiếp nối như Francois de Pina, Christopho Bori; nhất là Alexandre de Rhodes ( Đắc Lộ ), khuôn mặt nổi bật trong việc sáng tạo chữ "quốc ngữ " dựa theo mẫu tự latinh và thiết lập đoàn "thầy giảng ".

Tháng 2 năm 1626, tại kinh đô Đàng Ngoài, Chúa Trịnh Tráng tiếp kiến giáo sĩ Julien Baldinotti, nhưng công việc truyền giảngTin Mừng chỉ đạt kết quả khả quan với sự cập bến Cửa Bạng (thanh Hoá ) vào ngày lễ thánh Giuse 19-3-1627, của hai giáo sĩ dòng Tên: Đắc Lộ và Pierre Marquez. Giáo đoàn Kẻ Chợ mỗi ngày thêm tăng trưởng số giáo hữu nhờ sự cộng tác đắc lực của các "Thày giảng ". Phát động công trình biên soạn giáo lý, sáng tác kinh nguyện, thơ, vãn bằng chữ Nôm do các giáo sĩ khởi xướng như Gaspar d'Amaral, Antoine Barbosa và nhất là Gieronimo Majorica với sự đóng gop quan trọng của các thày giảng nhiệt thành.

Trong chuyến trở về Roma, giáo sĩ Đắc Lộ đã vận động Bộ Truyền Giáo ấn hành hai tác phẩm chữ quốc ngữ đầu tiên(1651) của chính tác giả:

Phép giảng tám ngày cho kẻ muấn chịu phép rửa tội mà beào đạo Đức Chúa Blời, sách dày 324 trang, mỗi trang in song ngữ Latin và Việt.
Tự điển Việt - Bồ - latinh (Dictionarium Annamiticum - Lusitanum et Latinum ), sách dày 500 trang, một chứng từ lịch sử vô giá về chữ quốc ngữ thời phôi thai.

Do tường trình của giáo sĩ Đắc Lộ về hiện trạng cánh đồng truyền giáo đang chín vàng trên đất Việt và đề nghị của Bộ Truyền Giáo, Đức Thánh Cha Alexandre thứ VII ban hành Tông thư "Super Cathedram " thiết lập hai giáo phận truyền giáo đầu tiên trên đất Việt ngày 09-09-1659 và đồng thời tuyển chọn hai thừa sai Hội Truyền Giáo Ba Lê làm " Giám quản tông toà ":

* Giáo phận Đàng Trong từ sông Gianh trở vào Nam, bao gồm phần đất Chiêm Thành, Chân Lạp, và đề cử Giám Mục Lambert de la Motte (MEP ) làm Giám quản tông toàđầu tiên.

* Giáo phận Đàng Ngoài từ sông Gianh trở ra Bắc và bao gồm miền Nam Trung Hoa, đồng thời ủy nhiệm Giám Mục Francois Pallu (MEP ) làm Giám quản tông toà tiên khởi.

Giờ đây trên cánh đồng truyền giáo, công cuộc rao giảng Tin Mừng được tiếp nối với hàng giáo sĩ bản quốc, bốn thày cả tiên khởi được tuyền chức tại chủng viện Juthia, Thái Lan, do việc đặt tay của Giám mục Lambert de la Motte là Giuse Trang (tháng3-1668),Gioan Huệ và Bênêdictô Hiền (6-1668) và Luca Bền (1669). Các giáo sĩ dòng Tên đã tuyển chọn và huấn luyện tổ chức các "Thày giảng " qua việc hình thành "nhà Đức Chúa Trời " để trợ lực trong công tác tông đồ, giảng dạy giáo lý cho tân tòng, thay thế các giáo sĩ khi các ngài bị trục xuất hoặc tình thế khó khăn và quản trị tài sản cộng đoàn.

Năm 1670, Giám mục Lambert de la Motte chính thc viếng thăm giáo phận Đàng Ngoài và tổ chức công đồng đầu tiên tại Phố Hiến (tháng 2) truyền chức cho 7 thày cả, 48 thày nhận lãnh bốn chức nhỏ. Vào mùa chay, ngài khởi xướng đời sống tu trì cho người phụ nữ bản xứ qua việc thiết lập và phê chuẩn luật "Dòng Mến Thánh Giá ", các chị sống cộng đoàn, đặt của cải làm tài sản chung, dưới quyền của bà bề trên, hằng ngày nguyện ngắm sự khổ nạn của Chúa Kitô trên Thánh giá. Công việc mục vụ của các chị là dạy giáo lý cho người nghèo, viếng thăm người già yếu, bán thuốc viên và nhất là rửa tội cho các em nhỏ hấp hối con nhà nghèo túng trong mọi hang cùng ngõ hẻm của thôn làng.

Tiếp tay đắc lực trong công việc truyền giảng Tin Mừng với các giáo sĩ, thừa sai, thày cả, và thày giảng là "Hội đồng quý chức ", các ông chánh trương, ông trùm, ông biện, họ là những giáo hữu hăng say, niệt thành, can đảm, hi sinh chính mạng sống để bảo toàn, che giấu, bao bọc các thừa sai, các thầy cả trong thời cấm cách bắt đạo. Quý chức là những chứng nhân đức tin, củng cố niềm tin của anh chị em tín hữu trong cảnh tù đầy hay phân sáp giữa những gia đình trong làng các lương dân. Những nét thắm đậm, vàng son viết nên trang sử oai hùng của Giáo Hội trên quê hương đất Việt là hàng giáo sĩ bản quốc, các thày giảng, các chị em dòng Mến Thánh Giá và hàng quý chức.

Vào cuối thế kỷ XVIII, một trong các khuôn mặt nổi bật giữa các vị Thừa sai là Giám mục Bá đa Lộc (Pigneau de Béhaine ) bên cạnh hoàng tử Cảnh và Chúa nguyễn phúc Ánh; không nên quá chú ý đếnhoạt động trần thế của nhà thừa sai tràn đầy nhiệt huyết mà thiếu quan tâm đến những đóng góp tích cực về lãnh vực tôn giáo, văn hoá. Giám mục Bá đa lộc là tác giả hai tác phẩm:

* Thánh Giáo Yếu Lý bằng chữ Nôm, ấn hành năm1774 bao gồm 230 câu hỏi và trả lời, dày 70 trang, bản khắc in chữ chân phương rất đẹp.

* Dictionarium Anamitico Latinum năm 1772, thủ bản dày 729 trang, tàng trữ tại văn khố Hội Thừa sai Ba Lê, ký hiệu V.1060 (128 rue du Bac - 75007 Paris).

II. TRƯỞNG THÀNH TRONG MÁU ĐÀO

Năm 1802, Vua Gia Long thống nhất sơn hà, mở ra triều đại nhà Nguyễn, tình hình ổn định, lắng đọng. Tình trạng Giáo Hội Công Giáo Việt nam được ghi nhận như sau:

Giáo phận Đàng Trong: 1 giám mục, 5 hừa sai, 15 thầy cả và 60.000 tín hữu

Giáo phận Tây Đàng Ngoài: 1 giám mục, 4 thừa sai, 41 thầy cả và 120.000 giáo dân.

Giáo phận Đông Đàng Ngoài: 1 giám mục, 4 thừa sai, 41 thầy cả và 140.000 giáo dân.(2)

Hạt giống Tin Mừng được gieo vào lòng dân Việt, âm thầm lớn lên và đâm hoa kết trái; nhưng biết bao giông tố kinh hoàng, bắt bớ, giam cầm, tra tấn, thảm sát và phân sáp các tín hữu vì niềm tin sắt son vào Đức Kitô qua những thăng trầm lịch sử các triều đại:

- 30.000 anh hùng Việt nam Tử Đạo dưới thời Chúa Trịnh Đàng ngoài; Chúa nguyễn và Nhà Tây Sơn ở Đàng Trong.

- 40.000 chiến sĩ đức tin đã anh dũng tuyên xưng đức tin dưới ba triều đại: Minh Mạng (1820-1841), Thiệu Trị (1841-1847) và Tự Đức (1848-1883).

- 60.000 tín hữu kiêu hùng chết vì tin vào Chúa Kitô do việc bắt bớ, thảm sát, phân sáp của phong trào Văn Thân (1862-1885).

Trong số 130.000 tiền nhân anh dũng hi sinh mạng sống để bảo vệ đức tin:

- 64 vị được tôn phong "chân phước" do Đức Thánh Cha lêo XIII ngày 07-05-1900

- 8 vị được nâng lên hàng "chân phước" do Đức Thánh Cha Piô X ngày 15-04-1906 và thêm 20 Vị vào ngày 11-04-1909.

- 25 Vị được tuyên xưng "chân phước " do Đức Thánh Cha Piô XII ngày 29-04-1951.

117 Chân phước tử đạo Việt nam gồm có 96 Vị thánh Việt nam, 10 Thánh thuộc hội Thừa sai ba lê và 11 Vị thuộc dòng Đa minh Tây ban Nha. Các ngài bao gồm mọi thành phần dân Chúa:

- 8 Giám mục (6 dòng Đa Minh, 2 Hội Thừa sai Ba Lê )

- 50 linh mục (37 linh mục Việt nam, 5 giáo sĩ dòng Đa Minh Tây ban Nha và 8 thừa sai Pháp )

- 16 thầy giảng và 1 chủng sinh (Tôma Trần văn Thiện )

- 42 giáo dân (1 phụ nữ: Thánh Annê Lê thị Thành ).

Theo giòng thời gian, giữa 117 anh hùng đức tin có:

- 2 Vị tử đạo thời Chúa Trịnh Doanh (1740 -1767 )

- 2 Vị đổ máu đào dưới đời Chúa Trịnh Sâm (1767 -1782 )

- 2 Vị đời Vua Cảnh Thịnh (1782 - 1802 )

- 57 Vị tử đạo đời Vua Minh Mạng (1820 - 1841 )

- 3 Vị đời Vua Thiệu Trị ( 1841 - 1847 )

- 51 Vị dưới đời Vua Tự Đức (1847 - 1883)

Bên cạnh những vị thừa sai và thầy cả can trường, sống chết với đoàn chiên để bảo vệ đức tin, vẫn còn những thừa sai âm thầm thu thập những tài liệu, nghiên cứu, như giám mục Jean Louis Taberd (Từ ) (MEP) với sự cộng tác tích cực của chủng sinh Philipphê Phan văn Minh và Gioan Đoàn trinh Hoan ( hai vị Thánh linh mục tử đạo tương lai ) tại chủng viện Pénang. Các vị lưu lại hai cuốn tự điển được đánh giá cao về phương diện ngữ học Việt Nam:

* Nam Việt Dương hiệp Tự Điển (Dictionarium Anamitico - latinum ), sách dày 820 trang, khổ lớn 21 cm x 27 cm.

* Dictionarium latino - Anamiticum, dày 708 trang với 85 trang phụ lục học tiếng Latin; 135 trang đàm thoại 4 thứ tiếng Việt - Latin - Pháp - Anh ; "Inê Tử Đạo văn " dài 563 câu và phụ thêm "An Nam Đại Quốc hoạ đồ " (75 x 50 cm), sách ấn hành tại Bengale (Ấn Độ) vào năm 1838.

Năm 1868, dưới triều Vua Tự Đức, một chiếu chỉ được ban hành, triều đình phân loại hai hạng con dân trong nước:"lương dân " bao gồm những con dân hiền lành, lương thiện, an phận thủ thường; và "dữu dân " là những người theo đạo "Da Tô ", đạo Tây phương, những người xấu như chính từ ngữ "dữu " diễn tả, dữu là tên loài cỏ dại, mọc chung và phá hoại ruộng lúa? Phải chăng triều đình muốn áp dụng hình ảnh dụ ngôn "giống cỏ dại " trong Tin Mừng Matthêu 13,24-30 ? Vì thế, những đóng góp xây dựng bảo vệ đất nước của sĩ phu Công giáo như Nguyễn trường Tộ không được triều đình nhà Nguyễn chấp nhận.

Máu đào tử đạo làm phát sinh hạt giống đức tin, vào cuối thế kỷ XIX, tình hình Giáo Hội tăng trưởng không ngừng, trong cánh đồng truyền giáo có thêm sự góp mặt của các dòng tu đến từ Âu Châu: Dòng Kín chiêm niệm, Dòng Sư huynh Lasan, Dòng Chúa Quan Phòng, Dòng Thánh Phaolô thành Chartres tiếp tay trong các hoạt động văn hoá, xã hội. Thống kê vào năm 1889 của 8 giáo phận như sau:

1. Giáo phận Tây Đàng Trong: Giám mục Jean Dépierre Đễ (MEP), 52 thừa sai, 42 thầy cả, 189 nhà thờ và nhà nuyện, 2 chủng viện với 214 chủng sinh, 1 nhà Dòng Kín, 12 cơ sở xã hội Dòng Phaolô thành Chartres với 130 nữ tu, 4 nhà Dòng Mến Thánh Giá với 295 dì phước, 110 trường học dạy 7.236 học sinh, 5 viện mồ côi chăm sóc 620 trẻ em, 5 bệnh viện thường xuyên điều trị 4000 bệnh nhân và 56.000 giáo hữu.

2. Giáo phận Đông Đàng Trong: Giám mục Désiré Van Camelbeke (MEP), 25 thừa sai, 14 thầy cả, 40 nhà thờ, 1 chủng viện với 54 chủng sinh, 12 nhà dòng nữ với 440 nữ tu, 2 viện mồ côi chăm sóc 894 em, 10 trường học dạy 472 học sinh và 17.773 giáo dân.

3. Giáo phận bắc Đàng Trong: Giám mục Louis Marie Caspar Lộc (MEP) 20 thừa sai, 26 thầy cả, 58 nhà thờ và nhà nguyện, 2 chủng viện với 51 chủng sinh, 7 tu viện với 420 chị em Dòng Mến Thánh Giá, 34 trường học dạy 920 học sinh, 2 viện mồ côi chăm sóc 200 em và 19.932 giáo dân.

4. Giáo phận Cao Miên: 1 Giám mục, 26 thừa sai, 3 thầy cả, 24 thầy giảng, 58 nhà thờ và nhà nguyện, 1 chủng viện với vơi 96 chủng sinh, 3 tu viện Dòng Chúa Quan Phòng với 42 nữ tu, 3 tu viện dòng Mến thánh Giá, 4 viện mồ côi 2 bệnh viện, 5 trường học dạy 1.947 học sinh và 17.500 bổn đạo.

5. Giáo phận Tây Đàng Ngoài: Giám mục Pierre Jean Marie Gendrau Đông (MEP), 43 thừa sai, 97 thầy ca, 3 củng viện với 355 chủng sinh, 425 nhà thờ và nhà nguyện và 200.000 tín hữu.

6. Giáo phận Đông Đàng Ngoài: giám mục José Terres Hiến (OP), 8 giáo sĩ Đa minh Tây ban Nha và 2 Việt nam, 32 thầy cả, 82 thầy giảng, 40 đại chủng sinh, 281 tiểu chủng sinh, 3 tu viện với 58 nữ tu Đa Minh, 6 nữ tu dòng Phaolô thành Chartres, 1 bệnh viện, 4 viện mồ côi, 21 hạt với 208 họ đạo và 41.120 tín hữu.

7. Giáo phận Nam Đàng Ngoài: Giám mục Louis Pineau Trị (MEP), 22 thừa sai, 59 thầy cả, 2 chủng viện với 160 chủng sinh, 58 trường học dạy thường xuyên 2.410 học tròvà 72.000 tín hữu.

8. Giáo phận Trung Đàng Ngoài: Giám mục Mazime Fernandez Định (OP), 12 giáo sĩ Đa minh Tây ban Nha và 4 Việt Nam, 66 thầy cả, 52 đại chủng sinh, 66 tiểu chủng sinh, 19 tu viện nữ Đa Minh, 3 bệnh viện, 710 họ đạo và 189.110 giáo dân (3).

Những thập niên cuối thế kỷ XIX, Giáo Hội quan tâm thiết lập các nhà in để phổ biến sách kinh, giáo lý, tu đức, phụng vụ, Kinh Thánh, các lọai tự điển, sách giáo khoa như nhà in Tân Định, Kẻ Sở, Ninh Phú đường, Trung hòa, Làng Sông... Về mặt văn hoá có những tác phẩm lịch sử, tự điển, phiên dịch của Trương vĩnh Ký và Huỳnh tịnh Của; về phần thiêng liêng tu đức không thể không đề cập đến các sách của cha Phaolô Qui, cha Hồ ngọc Cẩn. Tuần báo "Nam Kỳ địa phận " phát hành liên tục từ năm 1908 - 1945 (4).

(còn tiếp một kỳ)

Lm. Trần Anh Dũng, Paris

-------------------

Chú thích

(1) Khâm Định Sử Việt Thơng Giám cương Mục, quyển XXXIII, tờ 6a và 6b.

(2) Eugène L.Louvet, Les Mission catholiques au XIXè siècle, trang 207.

(3) Adrien launay, Atlas des Missions de la socìt des MEP, Lille 1890.

(4) Trần anh Dũng, Sơ thảo thư mục Công Giáo Việt nam, Paris 1992