Lược sử Giáo hội Công giáo Việt Nam (2)
(tiếp theo)
III. PHÁT TRIỂN TRONG PHỤC VỤ (THẾ KỶ XX)
Cánh đồng truyền giáo Việt nam thắm đậm máu đào tử đạo để tăng trưởng không ngừng. Trong phiên họp ngày 30-06-1924 dưới sự chủ toạ của Giám mục Henri Lecroat (S.J) thanh tra Toà Thánh, các giám mục miền Đông Dương đã đề nghị Bộ Truyền Giáo đổi tên các giáo phận, từ đây các giáo phận sẽ lấy tên thành phố có Toà Giám mục thay vì sử dụng danh xưng theo hành chánh dân sự. Toà thánh thiết lập Tòa khâm Sứ tại Đông Dương, đặt tại Phủ Cam, Huế, vào năm 1925. Vào đúng 400 năm (1533-1933) sau ngày Tin Mừng được rao giảng trên đất Việt, Đức Thánh Cha Piô XI đã tấn phong Giám mục tiên khởi Việt Nam : Gioan Baotixita Nguyễn bá Tòng ngày 11-06-1933 tại Đền thờ Thánh Phêrô.
Đức Khâm sứ Colomban Dreyer triệu tập công đồng Đông Dương tại Hà Nội từ 16-11 đến 06-12-1934 với sự tham dự của 19 giám mục, 5 bề trên thượng cấp các dòng Đa Minh, Phan Sinh, Xitô, Chúa Cứu Thế và Hội linh mục Xuân Bích cùng với 21 linh mục cố vấn và chuyên viên, chia thành 5 tiểu ban nhóm họp, thảo luận và đúc kết thành quả "Quy chế mục vụ công đồng Đông Dương" gồm 5 cuốn với 426 khoản nhằm mục đích:
- Thiết lập tiệm tiến hàng giáo phẩm Việt nam.
- Đào tạo và thăng tiến hàng giáo sĩ Việt nam nhằm đáp ứng nhu cầu mục vụ thời đại.
- Cổ võ tinh thần sống đạo và truyền đạo của giáo dân qua các phong trào công giáo tiến hành.
Thành quả đường hướng mục vụ của công đồng ghi dấu bước tiến quan trọng, nhiều giáo phận mới được chia và thành lập : Giáo phận Phát Diệm, Thanh Hoá (1932), Thái Bình (1936), Vĩnh Long (1938), Lạng Sơn (1939), Cần Thơ (1955), song song với việc tuyển chọn và liên tiếp tấn phong các giám mục Việt Nam : Gm hồ ngọc Cẩn (1935), Gm Ngô đình Thục (1938), Gm Phan đình Phùng (1940), Gm Lê hữu Từ (1945), các Gm Trịnh như Khuê, Phạm ngọc Chi, Trương cao Đại (OP), Hoàng văn Đoàn (OP) (1950), Gm Trần hữu Đức (1951), Gm Nguyễn văn Bình và Nguyễn văn Hiền (1955).
* Theo nhịp thăng trầm của đất nước, hiệp định Genève ngày 20-07-1954, phân chia hai miền nam bắc; số đông giáo sĩ, tu sĩ nam nữ và hơn 650.000 giáo hữu di cư vào miền nam; Giáo Hội miền Bắc còn lại trong 10 giáo phận có : 7 giám mục, 374 linh mụ và số ít tu sĩ phục vụ 750.000 tín hữu (5).
* Theo thống kê Bộ Truyền Giáo, Giáo Hội tại Miền nam năm 1957 có: 1.100.000 giáo dân, 67.854 tân tòng, 254 đại chủng sinh, 1.672 thầy giảng và 1.264 linh mục. Giáo Hội phát triển không ngừng để phục vụ tha nhân qua các môi trường tôn giáo, văn hoá, xã hội : Viện đại học công giáo Đàlạt khánh thành năm 1958; Giáo Hoàng Học Viện Pio X khai giảng năm 1958 do các giáo sĩ Dòng Tên đảm trách.
Để kỷ niệm 300 năm thành lập hai giáo phận đầu tiên (1659 - 1959 ) và ghi dấu sự phát triển của giáo Hội Việt nam : Đại Hội Thánh Mẫu toàn quốc được tổ chức tại Saigon ngày 17 đến 19-02-1959 dưới sự chủ toạ của Đức Hồng y Gregogio Agagianian, quyền Tổng trưởng Bộ Truyền Giáo.
Và ngày 24 -11-1960 qua Tông thư "Venerabilium Nostrrorum " Đức Thánh Cha Gioan XXIII thiết lập hàng Giáo Phẩm Công GiáoViệt Nam " với ba Giáo tỉnh : Hà Nội, Huế, và Sàigòn. Tông Thư được công bố ngày Lễ kính Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, ngày 08-02-1960 :
- Giáo tỉnh Hà Nội bao gồm các Giáo phận Lạng Sơn, Hai Phòng, bắc Ninh, Hưng Hoá, Thái Bình, Bùi Chu, Phát Diệm, Thanh Hoá và Vinh.
- Giáo tỉnh Huế gồm các giáo phận : Quy Nhơn, Nha Trang và Komtum.
- Giáo Tỉnh Sài Gòn quy tụ các giáo phận Vĩnh Long, Cần Thơ, và ba giáo phận mới được thành lập : Đàlạt, Mỹ Tho và Long Xuyên.
Hạt giống Tin Mừng đâm sâu trong lòng đất mẹ, phát sinh hoa trái đời sống đức tin kiên cường của người tín hữu, thêm nhiều Giáo phận mới liên tục được thiết lập : Giáo phận Đà nẵng (1963), Phú Cường và Xuân Lộc (1966), Ban Mê Thuộc (1967) và sau cùng là Phan Thiết (1975). Trong hoài bão và ước vọng mang Tin Mừng Đức kitô cho các dân tộc lân bang như Cao miên, Ai lao, và Thái lan, Hội Thừa sai việt nam được thành hình năm 1972.
* Biến cố tháng 4 năm 1975, một số đồng bào di tản, vượt biển ra nước ngoài; đất nước hoàn toàn thống nhất, sức sống của Mẹ Giáo Hội Việt Nam kiên cường, mãnh liệt dưới sự hướng dẫn tinh thần của Hội Đồg Giám Mục Việt nam. Trong phiên họp đầu tiên tại Hà Nội, ngày 01-05-1980, các Giám mục Việt Nam minh định và cương quyết theo đường hướng mục vụ :"Giáo Hội Việt Nam sống Phúc âm và hoà mình giữa lòng dân tộc ".
Lần đầu tiên tong dòng lịch sử Giáo Hội Việt Nam, Đức Tổng Giám Mục Giuse Maria Trịnh như Khuê, Tổng giám Mục Hà Nội, đuợc thăng lên hàng Hồng y tiên khởi do Đức Thánh Cha Phaolô VI vào ngày 30-06-1978.
* Ngày vinh quang, khải hoàn, ngày 19-06-1988, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã long trọng tôn phong 117 Thánh Tử đạo Việt nam tại Công trường Thánh Phêrô với sự tham dự của hàng ngàn giáo hữu Việt nam trong niềm tri ân các tiền nhân anh dũng, bất khuất, trung kiên đổ máu đào vì niềm tin son sắt vào Đức Kitô và Giáo Hội.
Như lời Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II trong sứ điệp gửi cho Hội Đồng Giám Mục Việt Nam dịp kỷ niệm 25 năm thành lập (1960-1985) :" Nếu hạt giống hôm qua gieo vào lòng lịch sử đã có một quá khứ oai hùng, cũng sẽ bảo đảm muôn phần phong phú cho tương lai mùa hoa nở trong vườn hoa Giáo Hội Việt Nam của quý chư huynh ".
* Theo bản thống kê năm 1995, Mẹ Giáo Hội Việt nam hôm nay hiện diện trong 25 giáo phận (*), với 4 triệu 500.000 tín hữu,trên tổng số 73 ttiệu dân, chiếm 6,5 % dân số toàn quốc; được chăm sóc bởi 32 Giám Mục, 1866 linh mục, 850 đại chủng sinh trong 6 Đại chủng viện : Thánh Giuse (Thành Phố Hồ chí Minh), Cần Thơ, Sao Biển Nha Trang, Xuân Bích Huế, Vinh Thanh, và Thánh Giuse Hà Nội. Hiện diện giữa lòng dân Chúa còn có các cộng đoàn tu trì, sống đời chiêm niệm hay hoạt động tông đồ, mỗi ngày càng tăng trưởng về phẩm cũng như lượng.
Số tu sĩ các dòng nam là 1.523 trên toàn nước; được ghi nhận vào năm 1993 : Dòng Biển Đức (53 đan sĩ), Dòng Chúa Cứu Thế (124 tu sĩ), Dòng Tên (40), Dòng ĐaMinh Lyon (9), Tỉnh Dòng Đa Minh Việt Nam (112), Dòng Đồng Công(140), Dòng Đức Mẹ người nghèo (10), Dòng Lasan (66), Dòng Phan Sinh Việt Nam (109), Dòng Sa-lê-diêng (108), Dòng Thánh Thể (20), Dòng Xitô (230), Dòng Thánh Tâm Huế (40), Dòng Thánh Giuse Nha Trang (50), Dòng Tiểu Đệ Giêsu (6), Hội linh mục Xuân Bích (13). Và các tu hội đời nam : Tu Hội Nhà Chúa (59), Tu Hội Nhà Chúa truyền giáo (3), Tu hội Nhập Thể tận hiến ( 33), Tu Hội Tôi Tá Thánh Linh (5).
Ơn gọi "Hiến Dâng Phục Vụ" nữ được thống kê vào năm 1993 như sau : Dòng Biển Đức (21 đan sĩ), Dòng Cát Minh (73), Dòng Clara (18), Dòng Con Đức Mẹ Mân Côi (245 nữ tu), Dòng Con Đức Mẹ phù hộ (23) Dòng Đức Bà (30), Dòng Đức Bà Truyền Giáo (65), Dòng Nữ Lasan (25), Dòng Phan Sinh Thừa Sai Đức Mẹ (103), Dòng Thánh Phaolô thành Chartres (300), Dòng Thánh Phaolô Thiện Bản (4)Dòng Nữ tu bác ái Vinh Sơn (250), Dòng Con Đức Mẹ, Mẹ Thiên Chúa (60), Dòng Khiết Tâm Đức Mẹ Nha Trang (110), Dòng Thánh Phao lô Mỹ Tho (134), Dòng Thánh Phaolô Đà Nẵng (320), Dòng Đức Mẹ người nghèo (4), Dòng Nữ tỳ Chúa Giêsu linh mục (142), Dòng Nữ tỳ thánh Thể (20), Dòng Cát Minh Bình triệu (73), Dòng Mến Thánh Giá Hưng Hoá (51), Dòng Mến Thánh Giá Thánh Mẫu Hà Nội (139), Dòng Mến Thánh Giá Thanh Hoá (52), Dòng Mến Thánh Giá Lưu Phương Phát Diệm (22), Dòng Mến Thánh Giá Vinh Xã Đoài (167), Dòng Mến Thánh Giá Huế Cố Đô (263), Dòng Mến Thánh Giá Cái Nhum (131), Dòng Mến Thánh Giá Thủ Thiêm (287), Dòng Mến Thánh Giá Cái Mơn (292), Dòng Mến Thánh Giá Chợ Quán (318), Dòng Mến Thánh Giá Phát Diệm (303), Dòng Mến Thánh Giá Thanh Hoá Đàlạt (263), Dòng Mến Thánh Giá Hà Nội Thủ Đức (71), Dòng Mến Thánh Giá Tân Bình Nha Trang (106), Dòng Mến Thánh Giá Quy nhơn (221), Dòng Mến Thánh Giá Cần Thơ Sóc Trăng (77), Dòng Mến Thánh Giá Tân Lập Thái Bình (91), Dòng Mến Thánh Giá Tân An (20), Dòng Mến Thánh Giá Bắc Ninh (65), Dòng Mến Thánh Giá Tân Việt (74), Dòng Mến Thánh Giá Phan Thiết (63), Dòng Mến Thánh Giá Huế, Xuân Lộc (77), Dòng Chúa Quan Phòng (496), Dòng Con Đức Mẹ đi viếng (96), Dòng Con Đức Mẹ Lavang Phú Cường (60), Dòng Con Đức Mẹ Vô Nhiễm (66), Dòng Đức Mẹ Trinh Vương (192), Dòng Nữ Vương Hoà Bình Ban mê Thuộc (123), Dòng nữ ĐaMinh Lạng Sơn (82), Dòng Nữ ĐaMinh Rosa de Lima Thái Bình-Bắc Ninh- Hải Phòng (297), Dòng Nữ ĐaMinh Thánh Thể (7), Dòng Nữ ĐaMinh Thánh Tâm (140), Dòng Nữ ĐaMinh Tam Hiệp, Bùi Chu nam (151), Dòng tự hiến ĐaMinh Bùi Chu bắc (137), Dòng Chúa Giêsu Hài Đồng (2),Dòng Tiểu Muội Chúa Giêsu (8), Dòng Dâng Truyền (10), Dòng Ảnh Phép lạ Komtum (63). Và các tu hội đời nữ :Tu Hội bác ái (30), Tu Hội nữ lao động truyền giáo (16), Tu Hội Nhập Thể tận hiến (67), Tu Hội Nô Tỳ Thiên Chúa (68), Tu Hội Nô Tỳ Công Giáo Maria (45), Tu Hội Tôi tá Thánh Tâm (20), Tu Hội Thăm Viếng (100). Tổng số tương đối là 8.822 nữ tu trên toàn quốc (6).
* Sau 20 năm (1975-1995) phát triển tại hải ngoại, Cộng đồng công giáo Việt Nam bao gồm khoảng 300.000 tín hữu trên 27 quốc gia định cư (khoảng 15 % người Việt nam tại hải ngoại) được phục vụ bởi 633 linh mục, 30 tu sĩ, 31 phó tế vĩnh viễn, 96 Đại chủng sinh, và 241 nữ tu (7).
Năm 1997, năm thật đặc biệt với giáo xứ Việt Nam tại Paris mừng kỷ niệm 50 năm (1947-1997) thành lập : đây là cộng đoàn tín hữu Việt Nam tại hải ngoại kỳ cựu nhất. Thánh lễ tạ ơn do Đức tổng Giám Mục Mario Tagliaferri, Sứ Thần toà thánh tại Pháp chủ tế vào ngày 11-05-1997.
Ngày 09-03-1998, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã bổ nhiệm Đức Cha Gioan Baotixita Phạm minh Mẫn làm Tổng Giám Mục Tổng Giáo Phận Thành Phố Hồ chí Minh và Đức Cha Têphanô Nguyễn như Thể làm Tổng giám Mục Tổng Giáo phận Huế.
Hàng trăm ngàn tín hữu hành hương về linh Địa La Vang để tham dự tam Nhật đại lễ kỷ niệm 200 năm đức Mẹ hiện ra tại La Vang (1798-1998) từ 13 đến 15-08-1998 là một biến cố tôn giáo trọng đại, là lễ chung của Giáo Hội Công giáo Việt Nam. Thánh lễ bế mạc do Đức hồng y đặc sứ Phaolô Phạm Đình Tụng chủ tế với sự hiện diện của nhiều Giám Mục và linh mục đồng tế. Toàn thể dân Chúa tạiViệt nam được mời gọi sám hối, đổi mới đời sống , học hỏi noi gương Mẹ Maria và "Cùng Mẹ LaVang tiến về Năm Thánh Cứu Độ 2000".
Mùa xuân 1999, Mùa xuân của Giáo Hội Việt Nam trước ngưỡng cửa năm 2000 với việc Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II bổ nhiệm 5 tân Giám mục: Đức tân giám mục Phêrô Trần đình Tứ, Giám mục Phú Cường, tấn phong tại Roma ngày 06-01; Đức tân giám mục Bùi văn Đọc, Giám mục Mỹ Tho, tấn phong tại Nhà Thờ Chính Toà Đàlạt ngày 20-05 ; Đức tân giám mục Giuse Ngô quang Kiệt, giám mục Lạng Sơn và Đức tân Giám mục phó Giuse Trần xuân Tiếu, Giáo phận Long Xuyên, tấn phong ngày 29-06 tại Nhà Thờ Chính Toà long Xuyên. Và Đức tân giám mục Phêrô Nguyễn Soạn, Giám Mục Quy Nhơn, tấn phong ngày 12-08-1999 tại Nhà Thờ Chánh Toà Quy Nhơn.
Hội Đồng Giám mục Việt Nam trong phiên họp thường niên từ ngày 11 đến 16-10-1999 tại Đại chủng viện Sao Biển Nha Trang được báo tin vui về Đại chủng viện Xuân Lộc mở cửa đón nhận chủng sinh các giáo phận Xuân Lộc, Đà Lạt, và Phan Thiết sau thời gian dài chờ đợi.
Lịch sử Giáo Hội Công Giáo Việt nam, một minh chứng hùng hồn đức tin quả cảm, hiên ngang của dân Chúa giữa lòng quê hương và đồng bào, bước theo tấm gương sống đức tin can trường của các thế hệ tiền nhân tử Đạo. Người tín hữu Việt Nam hiên ngang làm chứng nhân của Tin Mừng, sống niềm tin mãnh liệt vào Đức Kitô trên non sông đất Việt; người giáo dân Việt Nam hải ngoại kiên trì giữ vững và sống đức tin trên các miền đất mới theo bước chân, tinh thần truyền giáo của Thầy giảng Anrê Phú yên tử đạo ngày 27-06-1644, được Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II tôn phong lên hàng chân phước vào ngày 05-03 tại Quảng Trường Thánh Phêrô dịp Đại Năm Thánh 2000.
Đồng hành với chân phước Tử đạo Thầy giảng Anrê Phú Yên, mẫu gương người giảng viên giáo lý thế kỷ 17, hiên ngang truyền giảng Tin Mừng và dâng hiến mạng sống giữa tuổi 19 thanh xuân vì tin tưởng tuyệt đối vào tình yêu cứu nhân độ thế của đức Kitô: "hôm qua, hôm nay và mãi đến muôn đời" (Dt 13, 8 ).
Lm Trần Anh Dũng, Paris
-------------------------------------------
Chú thích:
(*) Địa phận mới: Bà Rịa. Hiện nay Giáo hội Việt Nam có 26 giáo phận
(5) Trần anh Dũng, Lịch sử biên niên Gíao hội Công giáoViệt Nam, Orlando, 1986.
(6) Nguyễn Ngọc Sơn, Người Mục tử Cộng đồng, 1994, tr. 74-80.
(7) Niên lịch Công Giáo Việt nam 1995, Dân Chúa Âu Châu phát hành.
Bài liên quan: