Hàn Mặc Tử - Hành trình tìm tình yêu (2)
Đọc xong tập thơ HƯƠNG THƠM, người viết có nhận định về tình cảm của Hàn Mặc Tử (HMT):
HMT vẫn yêu và giữ mãi mối tình với người con gái ấy, nhưng tình yêu của ông đi vào tưởng niệm, chỉ một mình mình giữ, và niềm đau xa nhớ ấy nó mới hấp dẫn HMT, còn nếu đoàn viên rồi nhỡ ra “dập mật !”. Ông nói tâm sự ấy trong bài TỐI TÂN HÔN “… Nhưng cái gì thơm đã tới kề - Tôi e tình tứ bớt say mê – không còn ý nhị ban đầu nữa – sẽ chán chường và sẽ chán chê…”. Nhận định này dẫn chúng ta đến nhận định kế tiếp là HMT yêu chỉ để yêu và yêu mãi, không cần tình dục. Ông sợ những gì có thể làm cho tình yêu trong ông già lụi. Mặt khác, hình bóng người xưa trong thơ của ông nay mang tính cách đại diện cho con người, đại diện cho cộng đồng. Thơ của ông nói gì thì nói nhưng kết thúc vẫn quy về con người. Con người chính là cái gốc để ông neo đậu, cậy dựa, hướng về cho dù ông có bay đi xa đến đâu chăng nữa.
HMT yêu trăng như yêu tình nhân, đó là quyền tự do và sáng kiến của ông. Tình yêu ấy dẫn tới việc ông yêu vũ trụ và thiên nhiên bằng cái tình rất người, rất nhạy cảm và rất thực. Đây là một tấm gương giúp người đọc phản tỉnh về quan niệm và thái độ hành xử của mỗi người trước vũ trụ và thiên nhiên.
HMT bị căn bịnh nan y tước đoạt tất cả những gì người đời cho là cứu cánh, nhưng ông không hề có bài thơ nào nguyền rủa định mệnh hoặc cuộc đời, Đấy chẳng phải đã nói lên nhân sinh quan rất lạc quan của Tử đó sao. Phải chăng Tử đã ngộ ra chân lý “sự sống mạnh hơn cái chết”. Quý ông bà, anh chị ở trong các trại phong chẳng phải cùng một ý chí như Tử đấy ư! Kính bái phục, kính bái phục những bản lãnh phi thường, cùng những đóng góp phi thường của quý bịnh nhân.
HMT đã đẩy hoạt động thuộc trí của mình lên cảnh giới cao hơn trăng, từ bài GHEN, ông đã cho chúng ta biết điều đó. Những cảnh giới HMT nói, có vẻ nó không có thực hay nói cách khác nó là những ý tưởng siêu thực, siêu thực thì đúng ý của Tử hơn, vì Tử là con nhà Công Giáo, là người có niềm tin vào sự sống đời sau (thế giới đời sau là những thực tại vô hình), nhưng sự sống đời sau là thế nào thì chưa ai nói rõ rốt ráo. Không biết không có nghĩa là không có. Tử tin như thế và tìm cách biết. Hiểu Tử như thế thì những câu thơ sắp tới của Tử không phải là quá khó hiểu nữa.
Ở tập thơ HƯƠNG THƠM, HMT cho chúng ta hiểu tình cảm yêu người cách đại đồng của ông, yêu thiên nhiên cách nhân bản và nhân linh hơn, yêu và muốn khám phá đời sống chiêm niệm về đời sau.
3/ Chúng ta cùng đọc tập MẬT ĐẮNG: tập thơ này có tám (8) bài, ý chính là tác giả nói về những đau khổ về thể xác, về tinh thần do tình cảm thiếu vắng, do bịnh tật mang lại. Có vẻ như lúc sáng tác những bài này, tác giả suy kiệt sức khỏe lắm. Thương cảm thay! đau lòng thay! Vì người viết có chủ đề là HÀN MẶC TỬ - HÀNH TRÌNH TÌM TÌNH YÊU, mà ở tập thơ này không xuất hiện nhân tố tình cảm mới, nên xin được tìm hiểu tiếp ở tập thơ sau.
4/ MÁU CUỒNG & HỒN ĐIÊN: tập thơ gồm 13 bài thơ, có điều lạ cần ghi nhận đó là có 11 bài thơ đề cập đến linh hồn (Chơi lên trăng, Cô gái đồng trinh, Cô liêu, Hồn là ai, Hồn lìa khỏi xác, Rượt trăng, Sáng láng, Siêu thoát, Say trăng, Thầm lặng, Trút linh hồn). Có 1 bài dành cho Trăng (Trăng tự tử). Có một bài dành cho người yêu (Trường tương tư).
- 11 bài nói về linh hồn: có vẻ như HMT muốn khám phá, xem mặt linh hồn của mình. Làm sao thấy được vì nếu có hồn thì hồn luôn kết hợp với xác, như thế thì mới là một con người hoàn chỉnh. Nếu xác không có hồn thì xác đã thành thây ma. Nhưng đó là nói giáo lý và triết lý. Nhà thơ thì khác, ông tìm cách tiếp cận với linh hồn của mình bằng cách tạo ý thức cho bản thân về sự hiện hữu và đồng tham gia của hồn vào trong hoạt động của chính tác giả. Trong bài Chơi Lên Trăng có đoạn “… Tôi nhập hồn tôi trong khúc hát – để nhờ không khí đẩy lên trăng – để nghe tiếng nhạc Nghê Thường trổi – để hớp tinh anh của Nguyệt cầu” Trong bài Cô Liêu, ông rủ hồn đi đón nường Mơ “… Tôi ngồi dưới bến đợi nường Mơ – Tiếng rú ban đêm rạn bóng mờ, - tiếng rú hồn tôi xô vỡ sóng, - rung tầng không khí bạt vi-lô.” Hoặc trong bài Hồn Là Ai, ông đặt câu hỏi xong rồi ông dẫn hồn đi giỡn với trăng, đi lên một hành tinh lạ … cuối cùng “Hồn là ai? Là ai! Tôi không hay – dẫn hồn đi ròng rã một đêm nay – hồn mệt lả mà tôi thì chết giấc.”…
- Bài dành riêng cho Trăng: Trăng tự tử. Bài này tả về HMT và trăng ở bên bờ miệng giếng, giếng này là nơi trai gái hẹn hò tình tự. Nơi lãng mạn dành cho tình yêu đôi lứa như thế mà “loạn rồi! loạn rồi, ôi giếng loạn – ta hoảng hồn, hoảng vía, ta hoảng thiên – nhảy ùm xuống giếng vớt xác trăng lên.” Vậy nghĩa là sao? Xin thưa, tình cảm của HMT đã thay đổi, ông không còn yêu trăng nữa, vì thế trăng nhảy xuống giếng tự tử vì thất tình, HMT vì tình xưa nghĩa cũ mà vội vàng nhảy ùm xuống giếng vớt xác trăng lên. Từ “xác trăng” còn cho người đọc hiểu là Trăng đã chết!!! Để củng cố cho nhận định trên, chúng ta cùng mở bài Rượt Trăng. Bài này có câu kết “vì trăng ghen, trăng ngã, trăng rụng xuống mình hai tôi.”
Đọc xong tập thơ Máu Cuồng & Hồn Điên, xét về mặt diễn biến tình cảm của tác giả, chúng ta thấy xuất hiện yếu tố “HMT chia tay với Trăng” dẫu là Trăng vẫn rất tuyệt vời. Nói thêm, cho dù không còn là bạn tình nhưng HMT nhà ta và Trăng vẫn còn là bạn tốt của nhau. Vẫn nhờ vả Trăng đưa Hồn của Tử đi chơi được mà (thú vị thay! tình cảm và suy nghĩ của HMT)
Tập thơ này HMT có ý giới thiệu bạn tình mới của ông đó là “linh hồn của P.F. Nguyễn Trọng Trí”. Linh hồn là một hữu thể thuộc linh thiêng, con người không thể dùng ngũ quan để nắm bắt, phải dùng đức tin tôn giáo cộng thêm những kinh nghiệm tu tập thiền định và học hỏi… có lúc nào đó… chợt nhiên lĩnh hội được linh thiêng, đó là khoảnh khắc “đốn ngộ”. Hàn Mặc Tử là con người nội tâm, học hiểu Phật học và Kitô học, lại có khả năng diễn đạt nhận thức của mình bằng ngôn ngữ chữ viết đồng thời ông lại vướng vào một nghịch cảnh cuộc đời xem ra oan uổng… ông có khoảng 5 năm ở ẩn – cách biệt, ông có khả năng trừu tượng và tưởng tượng siêu phàm… Tất cả những thành tố trên dẫn đến kết luận: Ông có thể có khả năng cảm thức về đời sống siêu nhiên của con người, con người có xác có hồn. Tuy nhiên những kinh nghiệm đó ông dùng ngôn ngữ thơ để nói thì đã cực kỳ cô đọng, lại nói về những thực tại siêu nhiên nữa thì nếu độc giả đọc mà dễ hiểu thì… thế giới đã thái hòa.
5/ Chúng ta cùng bước sang tuyển tập XUÂN NHƯ Ý
Xuân Như Ý có 14 bài thơ, trong số đó có bốn (4) bài nói về tình cảm của HMT với các người tình trước đây (Anh Điên, Em Nhớ Mình Xa, Hãy Đón Hồn Anh, Xuân Đầu Tiên). Có ba (3) bài có liên quan đến Hàn Giang (Bến Hàn Giang, Khói Hương Tan, Say Chết Đêm Nay) và một bài về Phan Thiết (Phan Thiết ! Phan Thiết). Có năm bài thơ ca tụng – cầu nguyện (Đêm Xuân Cầu Nguyện, Ave Maria, Nguồn Thơm, Ra Đời, Say Thơ) và một bài Bút Thần Khai.
Từ tập thơ Máu Cuồng & Hồn Điên, người viết đã nhận định về “sự đốn ngộ” của tác giả, nó là một sự thực đã xảy ra nơi Hàn Mặc Tử. Chúng ta cùng đọc những bài thơ trong tập Xuân Như Ý để thấy sự thay đổi trong cách nhìn sự việc xảy ra trong đời và cách suy nghĩ cùng cách nhìn về tương lai của ông.
Với những bài thơ viết cho những người ông yêu cũ: ông nhận ra sự khác nhau giữa hai người “Anh nằm ngoài sự thực – em ngồi trong chiêm bao – cách nhau xa biết mấy” (Anh Điên) có nghĩa là anh thì lý tưởng và siêu thực , còn em thì không có thực ! một đàng là “có” và một bên là “mộng”, “cách xa nhau biết mấy!” Cũng có thể nhìn ở góc độ thiền thì hiểu câu thơ này là “anh đã giác ngộ” còn em vẫn đi trong “mộng”. Hoặc trong bài gởi cho bà Mai Đình, HMT viết hoàn cảnh đơn sơ và cộ độc ông đang sống, rồi kết ở hai câu rất chủ động “kéo mền ủ kín toàn thân lại – để thả hồn bay , gửi mộng về.” (Hãy Đón Hồn Anh). ––
Bài Phan Thiết! Phan Thiết: ông Hàn cho chúng ta một lời tâm sự về cuộc đời và mối tình của ông ở Lầu Ông Hoàng – Phan Thiết. Nơi đó có tình yêu giữa ông và “người ấy”, rồi tình yêu giữa ông và Trăng, có sáng tạo thơ ca, có đền đài tráng lệ, có biển xanh sóng vỗ… Nói chung ông đã có một thời để yêu và một thời để đau khổ ở đó. Nơi đó in đậm dấu ấn kỷ niệm. Bài thơ ông viết sau khi đã ngộ nên rất thật và thoát, không ảo tưởng hoặc níu kéo tình yêu như trước đây nữa. “Nơi đã khóc, đã yêu thương da diết – ôi trời ôi ! là Phan Thiết Phan Thiết – mà tang thương còn lại mảnh trăng rơi – ta đến nơi Nường ấy vắng lâu rồi – nghĩa là chết từ muôn trăng thế kỷ … Hỡi Phan Thiết ! Phan Thiết ! – mi là nơi ta chôn hận nghìn thu – Mi là nơi ta sầu muộn ngất ngư”. Cần thống nhất rằng những câu thơ trên không phải là tâm tình oán giận Phan Thiết.
Những bài thơ cầu nguyện hay ca tụng, đây mới chính là tâm tình và hướng đến của HMT. Trong đau khổ và cô đơn cùng cực – ông đã ngộ ra sự bất toàn và yếu đuối của con người. Với tính khí cao ngạo của một thi sĩ, thì việc nhận thức này đến với ông chẳng phải là dễ dàng đâu. Chúng ta đã tìm hiểu qua ở những tập thơ trước. Sự giác ngộ đã dẫn ông ta đối diện với Đấng Thần Linh, ở đây là Đức Giêsu – Ngôi Hai Thiên Chúa, Bí tích Thánh Thể, Đức Mẹ Maria, các Thánh Cả. Những bài thơ ông viết lúc này mới an bình, bay bổng và siêu thoát, thể hiện lòng tin mãnh liệt và sự hào hứng vô song. Ví như trong bài Đêm Xuân Cầu Nguyện có đoạn “Trời hôm nay bình an như nguyệt bạch, - Đường trăng xa, ánh sáng tuyệt vời bay… Đây là hương quí trọng thấm trong mây – ngời phép lạ của đức tin kiều diễm: câu tán tạ, không khen long cả phiếm: bút Xuân thu mùa nhạc đến vừa khi … Xin tha thứ những câu thơ tội lỗi – của bàn tay thi sĩ kẻ lên trăng: Trong bao đêm xao xuyến vũng sông Hằng”.
Trong bài Nguồn Thơm, ông đã có những lời ca tụng Đấng thiêng liêng cực hay, mang đậm nét thi sĩ “Ta cho ra một giòng thơ rất mát – tới tinh khôi và thanh sạch bằng hương – Trời như hớp phải hơi men ngan ngát, - Đắm muôn ngôi tinh lạc xuống mười phương…” hoặc “Đây thi sĩ của đạo quân Thánh giá, - nửa đêm nay vùng dậy để tung hô, - Để sớt cho cả xuân xuân thiên hạ - Hương mến yêu là lộc của lời thơ.”
Có thể là, hằng ngày ông cũng được rước Thánh Thể, trong bài Say Thơ ông nêu nhiều vấn đề nhưng xin chắt lọc một đoạn có liên quan “… Đây tất cả, hỡi ôi ! Mình Thánh Chúa, - Của tế lễ là nguồn ơn chan chứa, - Đáng trọng thiên và rất đáng mong ơn. – Ly tao rằng đàn ngọc cũng theo đờn – bởi đạo hạnh rung muôn dây tình cảm…”. Có thể quý vị độc giả không cùng niềm tin Kitô giáo với người viết, nên xin được nói thêm: Thánh Thể là một trong bảy bí tích của Đạo, bí tích Thánh Thể là phương thế hữu hình và hữu hiệu để Thiên Chúa sống với Dân của Ngài. Khi người giáo dân đi tham dự thánh lễ rồi lên rước Thánh Thể, đó là lúc Chúa vào trong tôi và được trở thành cùng chung máu thịt với Chúa. Hiểu sơ như vậy rồi thì mới hiểu đoạn thơ tôi vừa trích dẫn, tác giả bài thơ đang thuật lại tâm tình cảm mến Thiên Chúa và lòng trí được thăng hoa như bay lên cõi Thiên đàng để cất tiếng tung hô khi ông “rước Thánh Thể”.
Tuyệt phẩm AVE MARIA: đây là ột trong những bài thơ dài nhất của HMT, với ntâm hồn nhạy cảm của một nnhà thơ, với kinh nghiệm được ơn trợ giú thiêng liêng cách nào đó của Mẹ Maria, tác giả đã có một bài thơ xuất thần đầy rung rẩy như thế. “… Tấu lạy Bà, lạy Bà đầy ơn phước, - cho tình tôi nguyên vẹn tợ trăng rằm, - thơ trong trắng như một khối băng tâm – lion luôn reo trong hồn, trong mạch máu… lòng vua chúa cũng như lòng lê thứ - sẽ ngất ngây bởi chưng thơ đầy ứ - nguồn thiêng liêng yêu chung Mẹ Sầu Bi…” Đọc tập thơ XUÂN NHƯ Ý xong, chúng ta thống nhất một số nhận định sau:
HMT đã chấp nhận sự không vuông tròn trong tình cảm đôi lứa một cách bình tĩnh và khách quan hơn, từ đó lòng ông được giải thoát khỏi nỗi mặc cảm bị tình phụ, bị ruồng rẫy.
Hàn Mặc Tử cũng giả từ bến Sông Hàn, để mơ cõi thiên đường, nơi đó có những tình cảm mới và rất đỗi nhiệm màu của muôn vị thần thánh.
HMT đã hớp được tinh túy của “Suối Nguồn Châu Báu – Đức Giêsu Kitô”. Chính tình yêu của Thiên Chúa đã làm thỏa mãn nhu cầu quá hạn của một tâm hồn thi sĩ, Tình yêu Từ Mẫu của Đức Maria - Mẹ Thiên Chúa – Mẹ chúng sanh – Mẹ Sầu Bi cũng là nguồn an ủi vô bờ đối với người thơ HMT. Ông thốt lên “tôi no rồi ơn võ lộ hòa chan”.
Tập thơ THƯỢNG THANH KHÍ gồm bảy (7) bài thơ, người viết cho rằng đây là những bài thơ của thi sĩ đốn ngộ. Lúc này thi sĩ vẫn là thi sĩ, nhưng tâm hồn đã được biến đổi – giác ngộ - ông đang trong giai đoạn của bức hình đồ thứ mười trong “Thập mục ngưu đồ” - trắng hoặc thõng tay vào chợ. Những bài này xin chờ duyên được mở rộng hiểu biết nhờ những kiến giải của những vị chân tu đắc đạo.
Kết luận
Kinh qua tìm hiểu và phân tích các tập thơ GÁI QUÊ, HƯƠNG THƠM, MẬT ĐẮNG, MÁU CUỒNG & HỒN ĐIÊN, XUÂN NHƯ Ý, THƯỢNG THANH KHÍ. Người viết xin được nói lại những kết luận của từng tập để làm rõ “HÀNH TRÌNH TÌM TÌNH YÊU CỦA HÀN MẶC TỬ”
Tập thơ Gái Quê
Cho chúng ta biết: Ông là một con người rất giàu tình cảm. Những loại tình cảm được nói tới là tình yêu nam – nữ, tình yêu bằng hữu với thiên nhiên và vũ trụ, lòng trắc ẩn với những mảnh đời không trọn vẹn trong tình yêu.
Tập thơ HƯƠNG THƠM
Hàn Mặc Tử có một mối tình sâu sắc với một người, nhưng tình yêu của ông đi vào tưởng niệm, chỉ một mình mình giữ, nó làm cho đau khổ nhưng niềm đau ấy lại rất hấp dẫn đối với ông. Mặt khác, hình bóng người xưa trong thơ của ông nay mang tính cách đại diện cho con người, đại diện cho cộng đồng. Thơ của ông nói gì thì nói nhưng kết thúc vẫn quy về con người. Con người chính là cái gốc để ông neo đậu, cậy dựa.
HMT yêu trăng như yêu tình nhân, tình yêu ấy dẫn tới việc ông yêu vũ trụ và thiên nhiên bằng cái tình rất người, rất nhạy cảm và rất nhân văn. Ông cũng yêu và muốn khám phá đời sống chiêm niệm về đời sau vì thế ông cũng yêu đêm.
Tập thơ Máu Cuồng & Hồn Điên,
Tập thơ này Hàn Mặc Tử có ý giới thiệu bạn tình mới của ông đó là “linh hồn của P.F. Nguyễn Trọng Trí”.
Tập thơ XUÂN NHƯ Ý
HMT đã chấp nhận sự không vuông tròn trong tình cảm đôi lứa một cách bình tĩnh và khách quan hơn.
Hàn Mặc Tử cũng giả từ bến Sông Hàn, để mơ cõi thiên đường, nơi đó có những tình cảm mới và rất đỗi nhiệm màu của muôn vị thần thánh là Thiên Chúa, là Chúa Giêsu Thánh Thể, Đức Mẹ Maria, là các Thánh cả, là Thiên Đàng.
Tìm hiểu về một hiền nhân có nhiều giai thoại đánh động lòng người như thi sĩ Hàn Mạc Tử, quả là xứng đáng đối với người viết. Những tìm thấy, hiểu được về sắc thái và cách biểu lộ tình cảm cùng những diễn tiến tình cảm của ông… nó rất con người, rất nhân bản, rất nhân văn, rất ấn tượng và có kết cục đời ông rất có hậu. Đọc xong thơ của ông, vừa thương – vừa mến phục tài – vừa học được nhiều điều bổ ích. Đồng thời cũng lây lây một chút cái thi vị của ông, bén bén một tẹo cái tâm hào sảng của ông. Còn nhiều điều muốn nói, nhưng văn thô chữ thiển. Kính mượn lời thi sĩ Hàn Mặc Tử để cảm ơn Chúa, để ca tụng Chúa cùng với ông. Thế đã là chúng ta đồng tâm rồi Tử nhỉ.
Lạy Chúa tôi, vần trăng cao giá lắm
Xin ban ơn bằng cách sáng thêm lên
Ánh thêm lên cho không gian rất đẫm
Linh hồn thơ mát rợn với hương nguyên.
Vầng Trăng (Thượng Thanh khí)
Hàn Mặc Tử
Hòa Duyên
__________________________________