Cuộc hội nhập văn hóa của Giáo hội Công Giáo Việt Nam (1533-2019) - Phần II

[ Điểm đánh giá5/5 ]1 người đã bình chọn
Đã xem: 164 | Cập nhật lần cuối: 8/15/2023 2:44:04 PM | RSS

Phong trào Văn Thân

Phong trào này bắt đầu ở Nghệ An, Nam Định năm 1867 và lan ra rất nhanh ở nhiều nơi trong nước, nhất là trong các tỉnh miền Trung vào những năm 1867-1868, 1873-1874 và 1883-1885, cho đến khi kết thúc vào năm 1886. Với khẩu hiệu “bình Tây, sát Tả”, các sĩ phu hô hào dân chúng giết những người lính Pháp và cả những người nước ngoài ở phương Tây đến truyền đạo, đồng thời giết cả những người Việt theo đạo vì họ đã theo tà đạo của người Tây phản bội đất nước. Do lòng ái quốc sôi sục, căm hờn vì thất trận, mất đất, quần chúng nồng nhiệt tham gia cướp phá các làng người Công giáo và giết hại tất cả những ai theo đạo. Trong khi đó, người Công giáo lại được học bài học sẵn sàng chết để làm chứng cho đức tin, không hận thù hay chống lại kẻ bách hại mình để noi gương Chúa Giêsu, nên số người Công giáo bị giết hại trong giai đoạn 1820-1886 khoảng gần 100.000 người.

Rất hiếm làng Công giáo nào như giáo xứ Trà Kiệu dám tổ chức chống lại quân triều đình và phong trào Văn Thân. Với số quân ít ỏi là 370 nam nhân và 500 phụ nữ, với 4 khẩu súng trận và vũ khí tự chế thô sơ, họ không thể nào chống nổi 8.000 quân Văn Thân với súng thần công, voi trận được chính quan võ của triều đình chỉ huy, nếu không có Đức Mẹ Maria hiện ra bảo vệ và đội quân trẻ em thiên thần chiến đấu giúp họ trong suốt 21 ngày đêm từ 1-21/9/1885[16]. Cuộc can thiệp lạ lùng này đã được truyền đến tai những người đang bách hại đồng bào Công giáo để họ suy nghĩ lại hành động của mình và ngừng việc giết hại đồng bào vô tội.

Tờ báo Quốc ngữ đầu tiên: Gia Định Báo

Một bằng chứng cho thấy quần chúng yêu mến và đón nhận những giá trị văn hoá của đạo Công giáo là việc phát hành tờ báo Quốc ngữ đầu tiên, tờ Gia Định Báo, ngay từ năm 1865, chỉ sau vài năm người Pháp xâm chiếm Việt Nam (1861). Tờ báo phát hành số đầu tiên vào ngày 15/04/1865 tại Sài Gòn do Trương Vĩnh Ký làm chánh tổng tài (giám đốc) và Huỳnh Tịnh Của làm chủ bút. Tờ báo tồn tại mãi đến năm 1897 mới chấm dứt hoạt động. Chắc chắn người dân Nam Bộ đã phải biết chữ Quốc ngữ cả trăm năm trước nên tờ báo mới có thể phát hành. Ở miền Bắc chữ Quốc ngữ phổ biến chậm và muộn hơn nên mãi tới năm 1905 mới có tờ Đại Việt Tân Báo.

Câu trả lời cho các cuộc sát hại

Thật vậy, trước khi người Pháp xâm chiếm Việt Nam, những cuộc giết hại một số đông người Công giáo đã gây nên tiếng vang quốc tế khiến cho các nước như Anh, Pháp, Tây Ban Nha[17] muốn can thiệp vào Việt Nam, nhân danh quyền sống và quyền tự do tôn giáo của con người, dù ẩn ý của họ là để chiếm Việt Nam làm thuộc địa. Một số sử gia đã ghép việc một vài giám mục thừa sai người Pháp như: P. de Béhaine (Bá Đa Lộc), Lefèbvre, Pellerin, Retord, Puginier giúp đỡ thực dân Pháp nên họ mới thực hiện thành công việc xâm lược Việt Nam[18]. Thật ra, đó chỉ là vài cá nhân trong số hơn 200 giáo sĩ nước ngoài đang truyền giáo tại Việt Nam vào thời đó[19]. Người ta không thể “vơ đũa cả nắm” để kết tội tất cả người Công giáo đều làm tay sai cho Pháp.

Hơn nữa, các giám mục dù là người Pháp hay không, đều hiểu rằng cuộc sống ở Việt Nam hay ở nước Pháp chỉ là một giai đoạn của đời sống con người, tất cả đều sẽ qua đi để chỉ còn tồn tại Nước Thiên Chúa. Do đó, họ không phục vụ trực tiếp cho nước Pháp hay bất cứ nước nào. Theo tâm thức và cách nhìn của người phương Tây thời đó, hành động của họ chỉ là muốn cứu giúp những người Việt Nam đang gặp khốn khổ, bị bách hại dã man, cho những người này có quyền được sống đúng phẩm giá con người và sống theo niềm tin của mình. Đó là nghĩa vụ lương tâm đối với người bị nạn mà sau này chúng ta định danh là những người bị xúc phạm nhân quyền theo Hiến chương Liên Hiệp QuốcTuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền ngày 10/12/1948.

Ngày nay, người ta hiểu rằng không thể đổ lỗi cho một vài vị giáo sĩ nước ngoài hay một ít đồng bào Công giáo Việt Nam là nguyên nhân chính gây nên tình trạng mất nước, như một số quan lại và nho sĩ trong phong trào Văn Thân đã kết án. Chiến thắng của người Pháp ở Việt Nam hay của các cường quốc Tây Phương xâu xé Trung Quốc trong cuộc Chiến tranh Nha phiến (1839-1842) là hậu quả tất yếu của một đất nước lạc hậu trước nền văn minh khoa học, quân sự hùng mạnh với ý đồ bành trướng xâm lược của phương Tây. Lịch sử thế giới cũng cho thấy những đất nước nhỏ bé như Nhật Bản dưới triều Minh Trị Thiên Hoàng (Meiji-tenno) với Mutsuhito (1852-1912) hay Thái Lan dưới triều vua Chulalongkorn-Rama (1868-1910) cùng thời với Việt Nam, đã thoát cảnh xâm lăng và đô hộ của phương Tây nhờ sự lãnh đạo sáng suốt, biết nhìn xa trông rộng và nhất là sự đoàn kết dân tộc. Tuy nhiên, dưới ánh sáng đức tin, người tín hữu lúc nào cũng nhận ra, qua những thăng trầm ấy, ý định cứu độ của vị Chúa lịch sử.

Một số nhà Nho có tâm huyết như Phan Bội Châu (1867-1940), Phan Chu Trinh (1872-1926) nhận chân được giá trị của người Công giáo Việt Nam. Các vị đó đã hô hào dân chúng sống tinh thần của người Công giáo Việt Nam: bỏ đi cái học từ chương cổ hủ của Nho giáo, cắt bỏ búi tóc, móng tay, nhận thức rõ mọi người đều là anh em chứ không ai có quyền sinh sát đối với người khác, nam nữ bình đẳng, bỏ chế độ đa thê trong gia đình, học chữ Quốc ngữ và chịu khó mở mang tâm trí cho nền văn minh khoa học Tây Phương. Đây là những điểm cơ bản trong phong trào Duy Tân, Đông Du của Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh, Đông Kinh Nghĩa Thục của Lương Văn Can... Nhưng đó lại là những sự thật mà người Công giáo Việt Nam đã phải chứng minh bằng cả mạng sống mình[20].

Hơn nữa, có rất nhiều người Công giáo đã tham gia các phong trào này. Phan Bội Châu trong cuốn hồi ký Phan Bội Châu Niên Biểu đã kể rõ tên của một số linh mục, giáo dân và xứ đạo đã giúp đỡ mình. Trong đó ông đã nhắc đến Mai Lão Bạng, quê ở Thọ Ninh, Hà Tĩnh, tháng 3/1908, đã đem vài chục thanh niên Công giáo sang Hồng Kông trong chương trình Đông Du[21].

Vào năm 1883, Toà Thánh tách Gp. Đông Đàng Ngoài thành hai giáo phận Đông (Hải Phòng) và Bắc (gồm các tỉnh ở phía Bắc như Bắc Ninh, Bắc Giang, Bắc Cạn, Cao Bằng Lạng Sơn) và trao cho Đức cha Colomer Lễ cai quản. Như thế là vào cuối giai đoạn này, GHVN có 9 giáo phận với số tín hữu gần 600.000 người. Trong giai đoạn thử thách này, dù bị giết hại rất nhiều nhưng số tín hữu vẫn không hề sụt giảm và đã giới thiệu cho cả người bách hại mình một sự sống mới mẻ và toàn diện.

4.2. Giai đoạn phát triển trong an bình (1886-1960)

Giai đoạn này được gọi là phát triển trong an bình vì không còn những cuộc bách hại trực tiếp bởi triều đình hay quần chúng, nhưng GHVN vẫn chịu tác động bởi những biến cố trong lịch sử dân tộc và thế giới.

Bối cảnh đất nước

Ở Việt Nam, từ năm 1887, người Pháp hoàn tất quá trình xâm lược Việt Nam và tổ chức một bộ máy cai trị khá hoàn chỉnh từ trung ương đến địa phương. Ở trung ương, đứng đầu là phủ toàn quyền Đông Dương, Việt Nam chia thành 3 miền, miền Nam là thuộc địa của Pháp có thống đốc Nam kỳ, miền Trung có khâm sứ Trung kỳ, miền Bắc có thống sứ Bắc kỳ. Nền quân chủ do vua nhà Nguyễn ở kinh đô Huế chỉ còn là bù nhìn sau khi Phong trào Cần Vương năm 1885 thất bại. Trong nước, một số đảng phái chống chính quyền xuất hiện như Việt Nam Quốc dân Đảng năm 1920, Đảng Cộng sản Đông Dương năm 1930.

Sau thế chiến thứ I (1914-1918) và thứ II (1939-1945), dân tộc Việt Nam trải qua thời kỳ bất ổn triền miên kéo dài tới năm 1954. Nhiều phong trào chống Pháp với các cuộc khởi nghĩa nổ ra khắp nơi như Việt Nam Quốc dân Đảng với Nguyễn Thái Học ở Yên Bái; Xô Viết Nghệ Tĩnh (1930) ở Nghệ An, Hà Tĩnh; Du kích Bắc Sơn tháng 9/1940; khởi nghĩa Nam Kỳ (23/11/1940). Rất nhiều tín hữu Công giáo đã tham gia vào các phong trào yêu nước này.

Năm 1940, Nhật tấn công Đông Dương và chiếm quyền cai trị của Pháp. Năm 1941, mặt trận Việt Minh được thành lập. Năm 1945, sau khi quân Nhật đầu hàng quân Đồng Minh, đất nước Việt Nam rơi vào tình trạng hỗn loạn. Lực lượng Việt Minh do Hồ Chí Minh lãnh đạo đã tổ chức thành công Cách mạng Tháng Tám. Ngày 2/9/1945, tại Hà Nội, thay mặt Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập tuyên bố sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Tháng 12/1946, chiến tranh giữa Việt Minh và thực dân Pháp bùng nổ và kết thúc với chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954.

Sau Hiệp định Genève 1954, Việt Nam bị chia thành hai miền: nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ở miền Bắc theo chế độ Cộng sản; và nước Việt Nam Cộng hòa ở miền Nam theo chế độ Tư bản. Cuộc xung đột ý thức hệ giữa Tư bản và Cộng sản dẫn đến các cuộc xung đột ở nhiều nơi trong nước và cuộc di cư của gần 1 triệu người ở cả 2 miền, trong đó có khoảng 700.000 tín hữu miền Bắc di cư vào miền Nam. Biến cố này đã tạo nên nhiều xáo trộn trong GHCG ở miền Bắc và thay đổi mạnh mẽ cấu trúc của GHCG ở miền Nam.

Tình trạng Giáo hội Việt Nam

Ngày 3/12/1924, Toà Thánh đổi tên các giáo phận Tông tòa tại Việt Nam theo địa hạt hành chính, nơi đặt tòa giám mục, giống như ta đang có ngày nay.

Sau Công đồng Đông Dương năm 1934, GHVN phát triển rất nhanh vì được định hướng rõ rệt dẫn đến việc nhiều giám mục Việt Nam được tấn phong và thành lập nhiều giáo phận mới như Gp. Thanh Hoá (1932) từ Gp. Phát Diệm, Thái Bình (1936) từ Bùi Chu, Vĩnh Long (1938) từ Sài Gòn và Phủ doãn Tông tòa Lạng Sơn trở thành giáo phận chính toà (1939).

Tình hình GHVN vào năm 1939: 16 giáo phận, 17 giám mục, 1.544.765 giáo dân trên tổng dân số 23.193.769 người, tỉ lệ 6,66% dân số.

Giáo hội miền Bắc còn lại 10 giáo phận với 7 giám mục, 374 linh mục và một số ít tu sĩ phục vụ 750.000 tín hữu. GHCG miền Bắc chịu nhiều thử thách nặng nề dưới chế độ Cộng sản: tất cả các cơ sở của Giáo Hội như chủng viện, dòng tu hay bác ái từ thiện như bệnh viện, nhà dưỡng lão, cô nhi viện đều bị đóng cửa, đất đai bị tịch thu, từng linh mục, tu sĩ bị quản lý nghiêm ngặt. Nhiều học sinh Công giáo không thể theo học các lớp trung học và phải bỏ đạo nếu muốn học đại học. Giáo hội miền Bắc rút vào thế bất hợp tác với chính quyền và anh dũng bảo vệ đức tin.

Trong khi đó, GHCG miền Nam theo chế độ Tư bản được tự do phát triển và phát triển rất nhanh. Các giáo xứ, nhất là những giáo xứ của người Bắc di cư, nhanh chóng xây dựng các cơ sở như nhà thờ, nhà xứ, trường học, nhà thương, nhà dưỡng lão, cô nhi viện. Các làng nghề truyền thống từ miền Bắc đưa vào được tái lập ở miền Nam khiến cho nền kinh tế của Việt Nam Cộng hoà phát triển mạnh mẽ và trổi vượt trong các nước Đông Nam Á. Ông Ngô Đình Diệm, vị Tổng thống đầu tiên của nền Cộng hoà, là một tín hữu Công giáo thanh liêm, đạo đức, một lòng vì nước vì dân, nên được quần chúng ủng hộ. Nhờ sự giúp đỡ đặc biệt của Hoa Kỳ và nhiều nước châu Âu, nhất là Tây Đức, những người Bắc di cư ổn định rất nhanh đời sống và hoà nhập vào cộng đồng dân tộc để cùng xây dựng quê hương.

Do số tín hữu đông đảo từ miền Bắc chuyển vào, nhiều giáo phận mới ở miền Nam được thành lập: Cần Thơ (1955) từ Nam Vang, Nha Trang (1957) từ Quy Nhơn. Ngày 24/11/1960, Đức Thánh cha Gioan XXIII đã thiết lập Hàng Giáo phẩm Công giáo Việt Nam với 3 giáo tỉnh Hà Nội, Huế và Sài Gòn. Một số giáo phận mới được thành lập trong dịp này: Long Xuyên từ Cần Thơ, Đà Lạt và Mỹ Tho từ Sài Gòn.

Vào cuối giai đoạn này, năm 1960, toàn bộ GHVN có 20 giáo phận: 10 ở giáo tỉnh Hà Nội, 4 ở Huế và 6 ở Sài Gòn. Thời điểm này, GHVN có 23 giám mục, 2.096.540 tín hữu trong số 29.200.000 dân, chiếm tỉ lệ 7,17%; 1.914 linh mục, 5.789 nam nữ tu sĩ, 1.530 đại và tiểu chủng sinh.

5. Thời kỳ trưởng thành (1960 đến nay)

Thời kỳ này được đánh dấu bằng việc thành lập Hàng Giáo phẩm Công giáo Việt Nam năm 1960.

5.1. Ý nghĩa trưởng thành

Việc thành lập này có nghĩa là GHCGVN được Giáo Hội toàn cầu công nhận như một thực thể chính thức, trưởng thành trong mọi sinh hoạt của Giáo Hội. Tất cả các giám mục Việt Nam trước đây chỉ cai quản các giáo phận gọi là hiệu toà, nay được gọi là chính toà. Những giáo phận hiệu tòa là các giáo phận chỉ có danh nghĩa ở các nước châu Phi, châu Á thời xa xưa chứ không còn tồn tại trong thực tế. Các giáo phận Việt Nam nay trở thành chính toà, nghĩa là được mang tên thật sự của mình, được công nhận sự độc lập và trưởng thành của mình trong Giáo Hội hoàn vũ. Việc này cũng giống như những đứa con trưởng thành có thể ra ở riêng, không còn phải lệ thuộc vào cha mẹ hay sự bảo trợ của người khác, giống như một người được xã hội coi là trưởng thành khi biết đảm nhận các trách nhiệm của mình đối với cộng đồng.

Tuy nhiên, sự trưởng thành đó không phải chỉ là sự công nhận một chiều từ phía cha mẹ hay xã hội mà còn phải căn cứ vào sự lớn mạnh, vững chắc của chính chủ thể được công nhận về mặt thể chất cũng như tinh thần, về thái độ hành động cũng như tinh thần trách nhiệm của đương sự trong việc ứng xử với người khác, với vạn vật. GHCGVN cũng chỉ thật sự trưởng thành khi có sự lớn mạnh về cộng đồng tín hữu, về nhận thức và hành động cũng như tinh thần truyền bá Phúc Âm cho mọi người. Chúng ta sẽ phải xét xem GHCGVN thật sự đã trưởng thành chưa và cần phải làm gì để đạt được sự trưởng thành như Giáo Hội Mẹ mong muốn ?

5.2. Bối cảnh lịch sử của thời kỳ này

Thời kỳ này mới chỉ kéo dài 59 năm (1960-2019) nhưng nhiều biến cố lớn lao trên thế giới và trong đất nước đã ảnh hưởng sâu xa đến GHVN, tác động đến sự trưởng thành của Giáo hội này.

Trên thế giới, cuộc đối đầu giữa hai phe Tư bản chủ nghĩa và Xã hội chủ nghĩa, hay gọi là chiến tranh lạnh (1947-1991), sau Thế Chiến thứ II, đã xảy ra ở nhiều nơi và ảnh hưởng trực tiếp đến Việt Nam trong cuộc chiến từ 1954-1975.

- Ngày 30/4/1975, chính quyền miền Nam sụp đổ. Sự kiện này đã tạo nên sự hoảng loạn trong một bộ phận lớn dân chúng, nhất là những người có liên quan với chính quyền, khiến gần một triệu người phải rời khỏi đất nước, di tản đến nhiều nước trên thế giới, nhất là Hoa Kỳ. Cuộc chiến giữa hai miền Nam Bắc chấm dứt, đất nước thống nhất.

- Ngày 2/7/1976 nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ra đời với lãnh thổ bao gồm cả hai miền Nam Bắc. Việt Nam mở rộng mối quan hệ với mọi nước, đóng góp nhiều hơn vào việc hình thành cộng đồng kinh tế ASEAN, hợp tác toàn diện với Hoa Kỳ (2015), Nhật Bản (9/2015), Hàn Quốc và Liên minh Châu Âu (EU).

- Năm 1977, Việt Nam trở thành thành viên của Liên Hiệp Quốc.

- Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở các nước Đông Âu, bắt đầu từ Ba Lan (1989). Ở Việt Nam, công cuộc đổi mới chính thức khởi đầu vào năm 1986 trong Đại hội lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam. Cuộc đổi mới này thật sự đã mang lại nhiều hiệu quả tốt đẹp, thay đổi được tình trạng kinh tế suy sụp của Việt Nam nhưng vẫn còn rất nhiều những khó khăn tồn tại. Ngày 1/11/2007 Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và hòa nhập vào nền kinh tế thị trường thế giới.

5.3. Sự trưởng thành của GHCGVN

Chính trong bối cảnh thay đổi sâu xa của thế giới và của Việt Nam, GHVN được mời gọi đổi mới để trưởng thành. Nếu chúng ta không chấp nhận đổi mới chính mình, sự trưởng thành này sẽ khó có thể đạt được theo lòng mong ước của Giáo Hội toàn cầu. Nó sẽ giống như một con người lớn mạnh về thể xác, nhưng lại rất ấu trĩ và nhỏ bé về tinh thần. Chúng ta quan tâm đến sự trưởng thành đó theo 4 lĩnh vực: trong cơ cấu tổ chức, trong nhận thức, trong hành động và trong việc Phúc Âm hoá (PAH).

5.3.1. Trưởng thành trong cơ cấu tổ chức

Giai đoạn 1960-1975

Giáo hội miền Bắc hầu như không phát triển về mặt nhân sự và cơ sở. Ngược lại, Giáo hội miền Nam lại gia tăng rất nhanh số tín hữu. Các giáo phận ở miền Trung và miền Nam lại được chia nhỏ: Đà Nẵng (1963) từ Quy Nhơn, Xuân Lộc và Phú Cường (1965) từ Sài Gòn, Ban Mê Thuột (1967) từ Kontum, Phan Thiết (1975) từ Nha Trang.

Vào thời điểm 1975, GHVN có 3 Giáo tỉnh: Hà Nội, Huế, Sài Gòn với 25 giáo phận. Giáo tỉnh Hà Nội gồm 10 giáo phận: Hà Nội, Lạng Sơn, Hải Phòng, Bắc Ninh, Hưng Hoá, Thái Bình, Bùi Chu, Phát Diệm, Thanh Hoá và Vinh. Giáo tỉnh Huế gồm 6 giáo phận: Huế, Quy Nhơn, Kontum, Nha Trang, Đà Nẵng và Ban Mê Thuột. Giáo tỉnh Sài Gòn sau đổi thành Thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM) (từ ngày 23/11/1976) gồm 9 giáo phận: TP.HCM, Vĩnh Long, Cần Thơ, Long Xuyên, Đà Lạt, Mỹ Tho, Phú Cường, Xuân Lộc và Phan Thiết.

Khởi đầu thời kỳ này, một biến cố tác động sâu xa đến Giáo Hội toàn cầu cũng như GHVN, đó là CĐ. Chung Vaticanô II (1962-1965) với đường hướng đại kết và mục vụ đã làm cho GHVN, nhất là ở miền Nam, quan tâm nhiều đến vai trò của Giáo Hội trong thế giới ngày nay và thúc đẩy mọi tín hữu tích cực tham gia các hoạt động trong xã hội trần thế.

Bảng tổng kết tình hình GHVN vào năm 1962-1963 cho ta thấy hoạt động của Giáo hội trong lĩnh vực giáo dục, y tế và xã hội rất lớn. Hầu như xứ đạo nào cũng có trường tiểu học và các nơi tập trung đông dân như thị xã, đều có trường trung học. Ta có thể thấy cả GHVN lúc đó có 2.151.370 tín hữu, 1.523 linh mục triều, 293 linh mục dòng và thừa sai, 533 đại chủng sinh, 2.748 tiểu chủng sinh, 956 tu sĩ nam, 4.977 tu sĩ nữ, 6.026 nhà thờ, 1.354 xứ đạo. GHVN lúc đó có 93 trường trung học với 60.412 học sinh, 1.122 trường tiểu học với 234.749 học sinh, 58 cô nhi viện nuôi 6.616 trẻ, 48 bệnh viện với 6.453 giường, 35 viện dưỡng lão với 244 người, 8 trại phong với 3.465 người và 159 phòng phát thuốc cho khoảng 1.870.073 lượt người.

Sự phát triển của Giáo hội miền Nam Việt Nam trong thời kỳ này trước hết là do sự tổ chức quy củ của các giáo phận cho mọi thành phần Dân Chúa, nhất là trong việc đào tạo các linh mục và tu sĩ. Ở miền Nam, giáo phận nào cũng có các tiểu chủng viện thu nhận các học sinh từ lớp 6 và huấn luyện đến hết lớp 12 để đưa vào các đại chủng viện chung của từng vùng hay từng miền. Vì có chương trình đào tạo hoàn chỉnh và định hướng cụ thể nên các linh mục, sau 7-8 năm học ở đại chủng viện, đã trở thành những người lãnh đạo có khả năng tại các giáo xứ hay trong các hoạt động mục vụ. Giáo hoàng Học viện Piô X ở Đà Lạt còn có chương trình đào tạo cao hơn cho các cấp lãnh đạo trong GHVN[22]. Viện Đại học Công giáo ở Đà Lạt cũng là nơi đào tạo cho các giáo dân và người ngoài Công giáo trình độ văn hoá cao cấp.

Sự phát triển của xã hội, nhất là ở miền Nam Việt Nam, luôn có sự đóng góp tích cực và lớn lao của các hội đoàn và phong trào Công giáo Tiến hành. Mỗi giới, mỗi lứa tuổi, đều có những đoàn thể hướng dẫn nhằm giúp việc sống đạo tiến triển theo đường hướng tích cực. Ta có thể kể tên số đoàn hội tiêu biểu như: Thiếu Nhi Thánh Thể, Hùng Tâm Dũng Chí, Nghĩa Sinh, Hướng Đạo Sinh Công giáo, Thanh Sinh Công, Con Đức Mẹ, Thanh Lao Công, Legio Mariae, Hiệp Hội Thánh Mẫu, Bà Mẹ Công Giáo, Gia Đình Phạt Tạ, Bác Ái Vinh Sơn, Dòng Ba Phan Sinh, Dòng Ba Cát Minh, Dòng Ba Đa Minh…

Chúng ta không thể nào quên sự đóng góp lớn lao của các tu sĩ nam nữ vào sự phát triển Giáo Hội và xã hội. Trong thời kỳ 1960-1975, các dòng tu phát triển rất mạnh ở miền Nam: 22 dòng và tu hội nam với 956 tu sĩ, 33 dòng và tu hội nữ với 4.977 tu sĩ đã khấn. Phần lớn các tu sĩ dạy trong các trường học và làm việc tại các cơ sở bác ái từ thiện như bệnh viện, nhà hộ sinh, viện dưỡng lão, cô nhi viện, trại phong… Các tu sĩ được học hỏi nhiều về đời tu cũng như về các khoa học đạo đời để có khả năng phục vụ. Trình độ văn hoá của tu sĩ được nâng cao: trước đây là tốt nghiệp lớp 9, sau đó là lớp 12. Nhiều người còn học thêm vài ba năm thần học hoặc theo học các chuyên khoa tại các đại học[23].

Tuy nhiên, sự trưởng thành của GHVN ở miền Nam cũng được thử thách khi người tín hữu tiếp cận với lối sống hưởng thụ dễ dãi, thiên về khoa học thực nghiệm của nền văn hoá phương Tây. Dù được hoàn toàn tự do sống đạo và truyền đạo, nhưng số người theo đạo lại giảm sút so với những thời kỳ trước đây.

Ta có thể căn cứ vào số người lớn được rửa tội trong các giáo phận ở miền Nam để xác định điều này. Thí dụ: TGP. Sài Gòn từ năm 1962-1974, với số tín hữu 500.000 người nhưng số người lớn theo đạo mỗi năm một giảm, từ 4.624 người xuống còn 1.829 người. Hoặc Gp. Xuân Lộc, với số dân Công giáo 332.810 người, chỉ có 857 người lớn trở lại đạo vào năm 1974[24]. Dù rằng các giáo phận này có trên 500 linh mục, hàng ngàn tu sĩ nam nữ, hàng trăm ngàn đoàn viên Công giáo Tiến hành hoạt động trong gần 500 trường trung tiểu học và cả trăm cơ sở bác ái từ thiện. Người ta có thể học trường Công giáo để biết chữ nghĩa, đến cơ sở từ thiện để nhận trợ cấp thuốc men, vật chất, tiền bạc, nhưng người ta không theo đạo Công giáo. Điều này thúc đẩy GHVN phải thay đổi cách sống đạo và rao giảng Phúc Âm để trưởng thành hơn trong đức tin.

Giai đoạn 1975- 2019

Giáo phận mới được Toà Thánh thiết lập là Bà Rịa vào năm 2005, tách ra từ Gp. Xuân Lộc. Như thế là Giáo tỉnh TP.HCM có 10 giáo phận. Giáo phận mới nhất được thành lập ngày 22/12/2018 là Hà Tĩnh, được tách ra từ giáo phận Vinh với giáo dân thuộc 2 tỉnh Hà Tĩnh và Quảng Bình. Như thế giáo tỉnh Hà Nội có 11 giáo phận. Giáo Hội Việt Nam hiện nay có 27 giáo phận.

Năm 2019, dân số Việt Nam hiện có hơn 96 triệu người, với tổng số người Công giáo khoảng 7 triệu người, chiếm khoảng 7% dân số với hơn 5.000 linh mục, hơn 5.000 đại chủng sinh và tu sinh. Theo thống kê đầu năm 2019 của Uỷ ban Tu sĩ (UBTS) thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam, trên toàn quốc có 307 dòng tu, tu đoàn, tu hội và hiệp hội với tổng số 33.087 tu sĩ, gồm 28.099 nữ tu và 4.988 nam tu, trong đó có 1.670 linh mục dòng. Thống kê của UBTS trong năm 2018 vừa qua cho thấy, có 2.922 tu sĩ nam nữ được gửi đi nước ngoài, trong đó có 2.272 tu sĩ giúp hoạt động mục vụ tại các giáo xứ và 650 tu sĩ trực tiếp đi truyền giáo tại các vùng xa xôi hẻo lánh, tập trung nhiều nhất tại Đài Loan, Nhật Bản và các quốc gia Phi Châu[25].

Quả thật, sau khi thống nhất đất nước, GHCGVN đã bước vào một thời kỳ mới để ý thức hơn về sứ mạng của mình và càng thêm tin tưởng vào quyền năng, ân sủng của Chúa. Cả hai miền trải qua một thời kỳ thử thách căng thẳng từ năm 1975 đến năm 1986, trước khi bước vào thời kỳ “đổi mới”, nhất là đối với những tín hữu Công giáo ở miền Nam, vì chưa có kinh nghiệm sống trong chế độ Cộng Sản như anh chị em ở miền Bắc.

Khi tất cả các cơ sở thờ phượng bị kiểm soát chặt chẽ, các cơ sở tu trì, từ thiện, giáo dục, kinh tế của Giáo hội miền Nam bị đóng cửa hay bị quốc hữu hoá, người tín hữu hết sức lo sợ, có người không dám đến nhà thờ. Các chủng sinh và tu sĩ, nhất là những người chưa khấn, được trả về để sống với gia đình. Nhiều cộng đoàn như toà giám mục, nhà xứ, dòng tu, sau vụ đổi tiền ngày 22/9/1975 và ngày 3/5/1978 với mỗi hộ gia đình được đổi 200 đồng, không biết phải làm gì để sinh sống. Nhiều tu sĩ đã khấn đang hành nghề dạy học, bị buộc phải nghỉ dạy, không biết phải làm gì để tiếp tục đời tu. Nhiều người phải đi bán hàng rong, hay làm trong các tổ hợp đan mây tre lá, làm mành trúc,… Đó là chưa kể nỗi lo sợ thường xuyên bị quản lý, theo dõi, khám xét nhà ở. Tuy nhiên, hầu hết đều trung thành trong ơn gọi của mình.

Khi không còn bị ràng buộc bởi những thứ vật chất như cơ sở, phương tiện, người tín hữu tập trung lòng đạo vào việc thể hiện đức tin, đức ái trong đời sống âm thầm khiêm tốn hằng ngày. Các linh mục, tu sĩ bớt bận tâm về trường học hay cơ sở bác ái xã hội để tập trung vào việc học hỏi, dạy giáo lý và sống kết hợp với Chúa qua đời sống cầu nguyện.

Thật vậy, khi chúng ta tin tưởng vào tình yêu Thiên Chúa Quan Phòng, Đấng đã an bài những điều tốt đẹp nhất cho dân tộc và GHVN, chúng ta sẽ nhìn những gì đã xảy ra với tâm hồn an bình, tràn đầy hy vọng và mới biết cảm tạ Chúa vì hồng ân đặc biệt của Người. Biến cố này dẫn đến sự thống nhất đất nước, cho người hai miền bây giờ san sẻ cuộc sống trọn vẹn cho nhau, đồng thời cũng thống nhất GHVN, qua Đại hội các Giám mục Việt Nam năm 1980, trong đường hướng “sống Phúc Âm giữa lòng dân tộc”.

5.3.2. Trưởng thành trong nhận thức

GHCGVN có lẽ cần quan tâm nhiều hơn để trưởng thành trong nhận thức. Sự nhận thức có được là do các thành phần dân Chúa được đào tạo tương đối hoàn chỉnh để có mối tương quan tốt đẹp với Chúa, với tha nhân, với vạn vật và với chính mình trong các lĩnh vực thể xác và tinh thần, tự nhiên và siêu nhiên, nội tâm và ngoại giới, cá nhân và tập thể thay vì quá chú ý đến các nghi lễ phụng tự hào nhoáng bên ngoài hay những kinh sách dài lời trong các buổi cầu nguyện.

Kể từ sau CĐ. Vaticanô II, người tín hữu có rất nhiều lợi thế để đạt tới sự trưởng thành về nhận thức hơn các thời kỳ của 20 thế kỷ đã qua. Cuốn Thánh Kinh bằng ngôn ngữ bản địa, các văn kiện của Công đồng Vaticanô II, sách Giáo lý của Hội Thánh Công giáo 1992, sách Tóm lược Học thuyết Xã hội của GHCG 2004, các thông điệp, huấn từ, tông thư… của các vị giáo hoàng thường được dịch ngay sang tiếng Việt, dễ dàng cho các tín hữu học hỏi. Thêm vào đó là các bản văn phụng vụ của Thánh lễ và Giờ kinh Phụng vụ cũng được cử hành bằng tiếng Việt thay vì bằng tiếng Latinh như trước đây, rất dễ dàng cho người tín hữu tham dự cách sống động và tích cực. Các chủng viện, học viện cho tu sĩ, học viện mục vụ dành cho giáo dân với các chương trình dạy triết học, thần học bằng tiếng Việt cũng là những phương tiện hữu ích cho việc đào tạo sự trưởng thành về mặt nhận thức này.

Các linh mục, tu sĩ và giáo dân ưu tuyển là các giáo lý viên, những đoàn viên các đoàn thể Công giáo Tiến hành, cần ý thức rằng chính mình là những người xây dựng và bảo vệ đất nước, bảo vệ nền văn hoá dân tộc bằng cách phổ biến những giá trị mới mẻ của nền văn hoá Công giáo để xây dựng nền văn minh tình yêu. Nền văn minh này đặt nền tảng trên một tình yêu quảng đại, trong sáng, mãnh liệt, mang tính vĩnh hằng của Thiên Chúa[26]. Tổ tiên Công giáo chúng ta đã giới thiệu cho đồng bào về giá trị của dân chủ, bình đẳng nam nữ, hôn nhân một vợ một chồng, khoa học kỹ thuật, chữ Quốc ngữ… của nền văn minh đó. Từng bài giảng của linh mục trong thánh lễ, từng bài dạy của tu sĩ trong lớp học, cho đến từng sinh hoạt của người tín hữu đều là những dịp thuận lợi để nâng cao nhận thức cho đồng bào, nên chúng ta không thể xem thường, nhưng phải chuẩn bị kỹ lưỡng nhờ giáo dục và đào tạo.

Tuy nhiên, chúng ta cũng cần lưu ý rằng: kể từ năm 1954 ở miền Bắc và năm 1975 ở miền Nam, nền giáo dục xã hội chủ nghĩa với ý thức hệ vô thần và duy vật, cố ý bài bác tôn giáo và tín ngưỡng dân tộc, đã ảnh hưởng sâu xa đến những người được thụ huấn, trong đó có cả những linh mục tu sĩ, chứ không phải chỉ có người dân. Việc bài bác các tôn giáo, không để cho tôn giáo dạy tín hữu ăn ngay ở lành, hành động theo chân thiện mỹ, là phá đổ chính nền tảng của văn hoá của dân tộc, nếu hiểu “văn hoá là tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong một giai đoạn nhất định của lịch sử”. Kết quả là nhiều người không còn sống theo những giá trị của chân thiện mỹ, buôn gian bán dối, tham nhũng, lừa đảo xảy ra ở khắp nơi, nên đạo đức xã hội càng ngày càng xuống cấp, những tội ác càng ngày càng man rợ, như các người lãnh đạo trong chính quyền đã nhận định[27]. Vì thế, người tín hữu Công giáo rất cần trưởng thành về mặt nhận thức để vừa làm chứng nhân cho Chúa Giêsu Kitô vừa xây dựng nền văn hoá dân tộc.

5.3.3. Trưởng thành trong hành động

Tuy nhiên, “đức tin không có hành động là đức tin chết” (Gc 2,17) cũng như người có “nhận thức mà không hành động” chỉ là hạng người “pharisêu” từng bị Chúa Giêsu trách cứ nhiều lần. Người tín hữu Việt Nam thời nay phải đưa những nhận thức đúng đắn, hoàn chỉnh và toàn diện của Kitô giáo thành những hành động cụ thể trong đời sống.

Trong giai đoạn hỗn loạn ở miền Nam Việt Nam vào buổi đầu sau khi thống nhất đất nước 1975, các giám mục đã quyết tâm ở lại quê hương, nhưng vẫn tôn trọng sự chọn lựa tự do của người giáo dân khi họ vượt biên và dạy họ can đảm bước theo Chúa Giêsu trên con đường thập giá ở bất cứ nơi nào trên thế giới[28]. Đó là một sự trưởng thành về hành động.

Hành động cần thể hiện sự trưởng thành có lẽ phải đi xuống sâu hơn, ở những cấp thấp hơn là các linh mục, khi họ dám “đi ra” khởi nhà thờ, nhà xứ để hòa mình vào đời sống người dân, nhất là những người nghèo khổ, tật bệnh, bị gạt ra ngoài lề xã hội và mang lại sự cứu giúp cần thiết, cụ thể và ơn cứu độ như yêu cầu của ĐGH Phanxicô trong tông huấn “Niềm vui Phúc Âm”, ngày 24/11/2013. Hoặc đi xuống tột điểm là các tín hữu giáo dân khi họ biến nhận thức thành hành động cụ thể để không dùng hoá chất nguy hại trong các nông sản, thực phẩm bán cho người mua vì đó là vi phạm giới răn thứ Năm “Chớ giết người” của Chúa. Hàng hoá của người Công giáo làm ra hay bán ra là phải an toàn, tốt đẹp, bổ dưỡng khiến ai cũng muốn giao hảo với người Công giáo, như tổ tiên Việt Nam ta đã làm được trước đây và như anh em Công giáo Hàn Quốc đang thực hiện được ở đất nước của họ khiến tỉ lệ người Công giáo trong vòng 65 năm (1949-2015) tăng từ 1% lên đến 10,5% [29].

5.3.4. Trưởng thành trong việc PAH

Nếu nhìn lại các số liệu thống kê về dân số Công giáo, chúng ta thấy dân số ấy tăng trưởng nhanh chóng: năm 1889 có 648.435 người, chiếm 6.5% dân số; năm 1939 có 1.544.765 người, chiếm 6,66%; năm 1960 có 2.094.540 người chiếm 7,17%; năm 1999 có 5.228.000 người chiếm 6,6%[30]; năm 2009 có 5.677.086 người chiếm 6,61%[31]; năm 2015 có 6.489.084 người chiếm 6,78% dân số. Tuy nhiên, đó chỉ là sự gia tăng cơ học, nghĩa là người dân sinh sản nhiều thì dân số tự nhiên tăng theo.

Muốn biết lĩnh vực truyền giáo hiệu quả hay không, người ta phải tính đến số người lớn theo đạo Công giáo hằng năm. Quả thật, trong vài chục năm gần đây, số người lớn gia nhập đạo ở Việt Nam khoảng 30.000 đến 40.000 người mỗi năm, nhưng hầu hết là để lập gia đình với người Công giáo. Điều tra trong các lớp giáo lý tân tòng đã cho chúng ta thấy điều đó. Nhưng sau khi lấy được vợ hay chồng rồi, rất ít người còn giữ đạo và số người bỏ đạo mỗi năm cũng tương đương với người theo đạo. Kết quả là tỷ lệ dân số Công giáo hầu như vẫn giữ nguyên khoảng 7% trong suốt hơn 130 năm qua từ năm 1886-2019. Như thế là chúng ta chưa thấy rõ được sự trưởng thành về mặt truyền đạo của GHVN[32].

GHCG toàn cầu đã triệu tập Thượng Hội đồng Giám mục (THĐGM) thế giới vào tháng 10/2012 tại Rôma với đề tài “Tân PAH để thông truyền đức tin” và nhắc nhở tín hữu rằng: tình trạng xã hội, văn hoá của thế giới đã thay đổi sâu xa nhưng người Công giáo không thay đổi cách thức truyền đạo, nên việc truyền đạo không đạt kết quả. THĐGM phân tích những nguyên nhân dẫn đến tình trạng này và chúng ta gặp thấy các nguyên nhân ấy ở GHCGVN. Giáo Hội cũng đề ra giải pháp Tân PAH, nghĩa là mỗi tín hữu phải trở thành Phúc Âm, trở thành Lời Sống động là Ngôi Lời Thiên Chúa làm người, trở thành hiện thân của Đức Giêsu Kitô, thì mới mong đạt được kết quả truyền đạo như thời các Thánh Tông đồ xưa[33].

Trở thành hiện thân của Đức Giêsu Kitô là người tín hữu phải gặp được Người vì đức tin là cuộc gặp gỡ giữa Thiên Chúa cụ thể là Đức Giêsu với từng con người cụ thể, phải kết hợp mật thiết với Người để Người chuyển thông cho họ tình yêu, sức mạnh, ân sủng và cả quyền năng, rồi từ đó họ mới có thể chia sẻ cho người khác “sự thật và sự sống, sự thánh thiện và ân sủng, tình yêu, công lý và hoà bình”[34]. Xã hội Việt Nam đang rất cần những giá trị đó để có thể đứng vững và phát triển nhưng hình như những tín hữu Công giáo, nhất là những người có trách nhiệm lãnh đạo cộng đồng, chưa ý thức được sứ mạng cao quý của mình. Họ cũng chưa phát huy những ân sủng kỳ diệu của Chúa Giêsu Kitô ban cho họ nên công trình PAH vẫn chưa đạt kết quả như lòng mong ước. Bước đường trưởng thành về PAH còn đang trải dài phía trước cho GHVN.

Lời kết

Nhìn lại dòng lịch sử dân tộc, người tín hữu Việt Nam sẽ cảm nghiệm được tình yêu thương của Cha Trên Trời để sống hòa thuận và hiệp thông với anh em trên mọi miền đất nước, cũng như với mọi người trên thế giới. Ý thức được điều này, người Công giáo Việt Nam càng muốn hoà nhập vào lòng dân tộc để thể hiện sứ mạng đã được Cha Trên Trời trao phó: xây dựng tình huynh đệ chân thành nơi địa phương mình sống. Trong đại gia đình dân tộc hiện nay có nhiều nền văn hoá khác nhau nên người tín hữu cần tìm hiểu và đối thoại với anh em để cùng xây dựng một nền văn minh tình yêu và hoà bình.

Bước vào thiên niên kỷ mới, HĐGMVN đã thiết tha yêu cầu người tín hữu đổi mới cách nghĩ, cách làm, cách sống của mình theo đúng tinh thần của Chúa Kitô để có thể “sống, làm chứng và loan báo Phúc Âm cho mọi giới đồng bào thân yêu”[35]. Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, trong Thông điệp Khởi đầu thiên niên kỷ mới, cũng mời gọi tất cả chúng ta cùng “ra khơi với Đức Giêsu Kitô” để thả lưới và bắt được nhiều “cá người” cho Thiên Chúa (số 51-52). Chúng ta sẽ không đứng yên trên bờ hay vui chơi trên bãi biển theo xu hướng cầu an hưởng thụ của con người thời nay. Chúng ta sẵn sàng chấp nhận những gian lao vất vả trong cuộc sống đạo và truyền đạo để làm cho Giáo Hội và quê hương Việt Nam mỗi ngày thêm phát triển, tràn đầy tình thương và sự sống của chính Thiên Chúa.

Câu hỏi gợi ý

1. Các tín hữu Công giáo thời xưa đã sống như thế nào để thu phục đồng bào tin theo Chúa Giêsu Kitô ?

2. Tín hữu thời nay nên sống cụ thể tích cực ra sao để làm chứng cho Nước Trời ?

Lm. Antôn Nguyễn Ngọc Sơn

Nguồn: HKK

----------------

Xin xem phần I theo link này: http://ttmucvusaigon.org/tai-lieu/cuoc-hoi-nhap-van-hoa-cua-giao-hoi-cong-giao-viet-nam--1533-2019-/

[1] X. Đây là bài được trình bày trong Niên giám Giáo hội Công giáo Việt Nam 2016, của Hội đồng Giám mục Việt Nam, NXB Tôn Giáo, Hà Nội, 2016, tr. 171-194.

[2] X. Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, Tông huấn Giáo Hội tại châu Á, 1999, số 5.

[3] X. Hội đồng Giám mục Việt Nam, Thư Chung 1980, số 9.

[4] X. Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục được soạn thảo dưới triều vua Tự Đức từ năm 1856, quyển 33, phần chính biên, tờ 5-6,

[5] Trong cuốn Niên giám Giáo hội Công giáo Việt Nam năm 2016 của Hội đồng Giám mục Việt Nam ở trang 175, tác giả viết dòng Đa Minh. Sau khi tìm hiểu và tra cứu, chúng tôi xin đính chính lại là Phanxicô, x. cuốn "Tỉnh Dòng Anh Em Hèn Mọn Việt Nam - Lược khảo lịch sử, Tập 1" của linh mục A.M Trần Phổ, OFM, xuất bản 1996 đã viết những thông tin này (tr.47), và ghi các thừa sai là dòng Phanxicô (với trích dẫn từ các tác giả: J. Vermeulen, Lorenzo Perez, Victor-Bernardin de Rouen, Antolin Abad Perez, Romanet du Caillaud). Xin cáo lỗi với anh em dòng Phanxicô.

[6] X. C. A. Poncet, La Princesse Marie, trong Bulletin des Amis du Vieux Hué, tháng 12/1941, tr.351-358; Lê Triều Thượng Cổ truyền giáo, tr. 111.

[7] X. Đỗ Quang Chính, Lịch sử Chữ Quốc ngữ, 1620-1659, Tủ sách Ra Khơi, Sài Gòn, 1972.

[8] X. Công giáo và Dân tộc, Công giáo Việt Nam sau quá trình 50 năm, 1945–1995, 1996, tr.86.

[9] X. Nguyễn Văn Kiệm, Một số vấn đề lịch sử đạo Thiên Chúa trong lịch sử dân tộc Việt Nam, UBKHXH, Viện KHXH và Ban Tôn giáo Chính phủ, 1988, tr. 29-42.

[10] X. Trần Đình Sơn, Vua Gia Long với quyết định chọn người kế vị, tạp chí Xưa và Nay của Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, số 81B, tháng 11/2000, tr. 26-27.34.

[11] X. Nguyễn Văn Kiệm, Một số vấn đề lịch sử..., sđd, tr. 27.

[12] X. Trần Đình Sơn, Sđd, Tạp chí Xưa và Nay, số 81B, tháng 11/2000, tr. 26-27.

[13] X. Gs. Lê Văn Sáu, Một số vấn đề lịch sử… Sđd, tr. 101.

[14] X. Nguyễn Văn Quý, Địa phận Sài Gòn 1835-1944, tư liệu, 1993, tr. 5-39.

[15] X. Lm. Bùi Đức Sinh, OP., Giáo hội Công giáo ở Việt Nam, q.II, tr.17-200..

[16] X. Lm. Geffroy thuộc Hội Thừa Sai Paris (MEP), đăng sự kiện này trên tuần báo Missions Cathothiques ở Paris vào các ngày 3, 10, và 17 tháng 9 năm 1886 (bản tiếng Việt), cũng như trong tài liệu của H. Ravier, Sử ký Hội thánh (Historiae Ecclesiasticae). Q. III.

[17] X. Một số vấn đề lịch sử…, sđd, tr. 19.

[18] X. Một số vấn đề lịch sử… sđd, tr. 17-21.

[19] X. Thống kê GHVN năm 1889.

[20] X. Một số vấn đề lịch sử… sđd, tr. 78.

[21] X. Một số vấn đề lịch sử… sđd, tr. 45.

[22] X. Niên Giám 2016, Chương 17, Các đại chủng viện ở Việt Nam.

[23] X. Hội đồng Giám mục Việt Nam, Giáo Hội Công giáo Việt Nam Niên Giám 2016, Chương 18, Đời sống thánh hiến tại Việt Nam.

[24] X.. Nguyễn Ngọc Sơn, Người mục tử cộng đồng hướng về tương lai, Tòa TGM. TPHCM xuất bản 1997, tr. 73-88.

[25] X. Bài phỏng vấn cha Tôma Vũ Quang Trung, dòng Tên, thư ký Uỷ ban Tu sĩ của HĐGMVN, ngày 15/5/2019.

[26] X. Sứ điệp Ngày Thế giới Hòa bình 1/1/2001 của ĐTC Gioan Phaolô II; Tóm lược Học thuyết Xã hội Công giáo, 2004, số 103,391,582.

[27] X. Sđd, Niên Giám GHCGVN 2016, Chương 13, Công cuộc Tân PAH ở Việt Nam.

[28] X.. Thư ngỏ của các giám mục thuộc TGP. TP.HCM gửi các tín hữu Công giáo trên thế giới về vấn đề di tản.

[29] X. Our Sunday Visitor’s, Catholic Almanac 2015, tr. 316; Lm. Antôn Nguyễn Ngọc Sơn, Cẩm nang tân Phúc âm hoá, NXB tôn Giáo, 2014, tr. 280.

[30] X. Catholic Almanac 2002, tr. 338

[31] X. Tổng Điều tra Dân số toàn quốc 2009.

[32] X. Sđd, Niên Giám GHCGVN 2016, Chương 21, GHVN trong tình hiệp thông.

[33] X. Sđd, Niên Giám GHCGVN 2016, Chương 13, Công cuộc Tân PAH ở Việt Nam.

[34] X.. Kinh Tiền Tụng Lễ Chúa Giêsu, Vua Vũ Trụ.

[35] X. HĐGMVN, Thư Mục vụ, tháng 10/2000, số 2, 3, 5, 8.