Cuộc hội nhập văn hóa của Giáo hội Công Giáo Việt Nam (1533-2019) - Phần I

[ Điểm đánh giá5/5 ]1 người đã bình chọn
Đã xem: 187 | Cập nhật lần cuối: 8/16/2023 2:38:55 PM | RSS

Nhập đề

Chúng ta đã cùng nhau tìm hiểu khái quát về cuộc hội nhập văn hoá của dân tộc Việt Nam trong dòng lịch sử để nhận ra những giá trị nào đang tồn tại nơi dân tộc Việt Nam. Trong phạm vi bài này, chúng ta muốn nhìn rõ hơn cuộc hội nhập văn hoá của những tín hữu Công giáo từ năm 1533 đến nay để thấy họ đã đem đến những giá trị nào cho dân tộc và nhận được những điểm tốt đẹp nào từ quê hương Việt Nam[1]. Tìm lại dòng lịch sử không phải là chúng ta muốn khơi lại những kỷ niệm đau buồn, những mối bất hòa, xung đột, nhưng là để giúp nhau nhận ra hồng ân Thiên Chúa trong mọi biến cố thăng trầm, tạo nên sự cảm thông giữa mọi thành phần dân tộc và xây dựng nền văn hoá Công giáo Việt Nam (GHVN) theo đường hướng hiệp thông và đối thoại của Công Đồng (CĐ) Vaticanô II đã được Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II nhiều lần nhắc đến.

1. Con đường Nhập Thể - Cứu Độ

Mầu nhiệm Con Thiên Chúa Nhập Thể đã dạy cho người tín hữu Việt Nam khám phá ra giá trị của bối cảnh lịch sử trong cuộc đời và sứ mạng của từng người cũng như của GHVN. Thật vậy, “nơi Đức Giêsu, người Nazareth, Thiên Chúa đã nhận lấy những yếu tố đặc thù của bản tính nhân loại, kể cả việc thuộc về một dân tộc nhất định và một xứ sở nhất định... Nét đặc thù vật lý của xứ sở và những yếu tố địa lý của miền đất ấy là điều không thể tách rời được với sự thật là Ngôi Lời đã nhận lấy thân xác con người[2]. Trong tinh thần nhập thể và nhập thế đó, người tín hữu Việt Nam gắn bó với đất nước và dân tộc mình.

Đất nước thân yêu này là chốn nương thân của nhiều dân tộc với những nền văn hoá khác nhau trong suốt dòng lịch sử. Trong quá trình xây dựng đất nước, tất cả các dân tộc ấy đã đổ biết bao công sức, mồ hôi, nước mắt trên mảnh đất quê hương để khai hoang, phục hóa, phá rừng làm rẫy, đắp đê chống lũ, ngăn mặn lấn biển… Chúng ta phải thành thật nhìn nhận rằng các dân tộc đều nhân danh giang sơn gấm vóc để đấu tranh chống kẻ thù xâm lược, hay nhân danh dân tộc mình để mở rộng biên cương. Cuối cùng, đất nước, núi sông vẫn còn đó, không phải dành riêng cho ai, nhưng cho tất cả mọi người.

Tất cả các dân tộc ấy tạo thành cộng đồng người Việt hiện nay với 54 thành phần dân tộc khác nhau, trong đó dân tộc Kinh chiếm khoảng 85% dân số cả nước. Tuy nhiên, không giọt mồ hôi nào vì yêu thương đồng bào đổ xuống trên mặt đất này lại trở thành vô nghĩa, không giọt máu hồng nào vì chính nghĩa thấm vào lòng đất này lại không có giá trị vô song. Mọi sự đều được biến đổi trong Đức Giêsu Kitô là Ngôi Lời Thiên Chúa đã nhập thể làm người. Người đã đưa thần tính vô hạn, vĩnh hằng của Thiên Chúa vào trong thế giới vật chất hữu hạn, nhất thời của con người để biến đổi và thăng hoa tất cả trong cuộc Phục Sinh của Người.

Tin vào Đức Giêsu Kitô, người dân Việt Nam sẽ nhìn đất nước mình bằng một ánh mắt mới. Người dân Việt hôm nay, dù là người Kinh hay dân tộc thiểu số, sẽ nhìn nhau với ánh mắt đầy tin tưởng và hy vọng, bao dung và nhân ái, vì sự sống bất diệt trong mình được khởi đầu từ chính đất nước này. Thật vậy, những cây lúa, ngọn rau rút tinh hoa từ lòng đất nước đã ngấm bao mồ hôi, xương máu của cả người Việt, người Hoa lẫn người Chăm, người Khơ Me,... trong suốt dòng lịch sử đang nuôi sống tất cả… Do đó, ta có thể nói rằng, tất cả đều cùng chung một huyết thống, đều là anh em ruột thịt của nhau. Sự sống tự nhiên này, nhờ lòng tin vào Đức Giêsu, sẽ biến đổi thành sự sống siêu nhiên.

Những nét khác biệt của mỗi dân tộc trong dòng lịch sử chỉ biểu lộ những giới hạn của vật chất và con người. Chính Đức Giêsu Cứu Thế sẽ quy tụ và biến đổi mọi người để không còn là Kinh hay Hoa, Chăm hay Thượng, “Do Thái hay Hy Lạp, nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà; nhưng tất cả chỉ là một trong Đức Giêsu Kitô” (x. Gl 3,28). Điều này Chúa Thánh Thần đã thực hiện trong ngày Ngài hiện xuống để quy tụ tất cả những con người thuộc các ngôn ngữ khác nhau làm thành Giáo Hội của Đức Giêsu (x. Cv 2,1-12).

Là Hội Thánh trong lòng dân tộc Việt Nam, chúng ta quyết tâm gắn bó với vận mạng quê hương, noi theo truyền thống dân tộc, hoà mình vào cuộc sống hiện tại của đất nước... Quê hương này là nơi chúng ta được Thiên Chúa mời gọi để sống làm con của Người, đất nước này là lòng mẹ cưu mang chúng ta trong quá trình thực hiện ơn gọi làm con Thiên Chúa, dân tộc này là cộng đồng mà Chúa trao cho chúng ta để phục vụ...[3]. Người tín hữu Việt Nam luôn gắn bó với quê hương, dân tộc và liên kết sâu xa với Giáo hội Mẹ Việt Nam, vì chính người mẹ này đã sinh ra mình trong đức tin và biến đổi mình từ con người thành con Chúa.

Với tâm tình con cái, trong ít trang sau đây, chúng ta cùng ôn lại một vài đoạn đời của Mẹ từ lúc khai sinh, tăng trưởng, cho đến khi phát triển, trưởng thành. Nhiều người đã từng kể lại đời Mẹ, kẻ ít người nhiều, điều đúng điều sai. Nhưng nếu không nhìn dưới ánh sáng Tin Mừng, đời Mẹ vẫn chỉ là những biến cố rời rạc, những con số vô hồn, những năm tháng tủi nhục vô nghĩa, như nhìn những giọt nước rơi từ đôi mắt của một người xa lạ. Chỉ có những người con gần gũi thân thương mới hiểu được ý nghĩa và cảm nhận được niềm vui hay nỗi khổ từ những giọt nước mắt này. Trong tâm tình ấy, chúng tôi kể lại đời Mẹ, để mọi người cảm thông với chúng tôi và đồng cảm với Mẹ GHVN qua các thời kỳ:

- Khai sinh (1533 - 1659)

- Tăng trưởng (1659 - 1802)

- Phát triển (1802 - 1960)

- Trưởng thành (1960 đến nay)

Chúng tôi chọn cách phân chia các thời kỳ như trên dựa theo mốc thời gian với những biến cố quan trọng đánh dấu sự thay đổi lớn lao của cơ cấu GHVN.

2. Thời kỳ khai sinh (1533-1659)

2.1. Giai đoạn dò dẫm đầu tiên (1533-1615)

Từ cuối thế kỷ XVI, nhất là từ thế kỷ XVII, quan hệ thương mại của nước ta với các nước phương Tây như Bồ Đào Nha, Anh, Pháp và cả Nhật Bản ở phương Đông phát triển. Các chúa Trịnh, Nguyễn muốn giao hảo với người nước ngoài để bán hàng hóa trong nước và nhất là để mua được nhiều súng đạn, tàu chiến. Trong khi đó, Giáo hội Công giáo (GHCG) toàn cầu lại phát động công cuộc truyền giáo và gửi các nhà thừa sai đi khắp nơi, nhất là đến Ấn Độ và Trung Quốc như Thánh Phanxicô Xaviê (1541), cha Matteo Ricci. Nhiều vị thừa sai đi theo các đoàn tàu buôn đến truyền giáo tại các miền Á Châu và Viễn Đông, trong đó có Việt Nam.

Nhiều nhà sử học Công giáo Việt Nam đã chọn năm 1533 như khởi đầu cho đạo tại Việt Nam vì trong bộ Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục[4] có nói đến “tháng 3 năm Nguyên Hòa thứ nhất (1533) đời Lê Trang Tông, có người Tây dương tên I-Nê-Khu, lén đến truyền đạo Giatô ở làng Ninh Cường và Quần Anh, huyện Nam Chân và làng Trà Lũ, huyện Giao Thuỷ” (thuộc tỉnh Nam Định, Gp. Bùi Chu hiện nay).

Năm 1550, linh mục Gaspar de Santa Cruz, O.P., đến giảng đạo tại Hà Tiên. Năm 1558, đời vua Lê Thế Tông, hai giáo sĩ Bồ Đào Nha là Alonso da Costa và Gonsalves đến giảng đạo ở vùng Vạn Lại, thủ đô của Nam Triều. Tiếp theo là các linh mục dòng Đa Minh người Bồ Đào Nha khác như: Luis da Fonseca, Grégoire de la Motte đến truyền giáo ở Đàng Trong (1580) và bị vua Chiêm Thành hãm hại tại Quảng Nam. Năm 1583, các linh mục dòng Phanxicô[5] từ Philippines đã đến truyền giáo như Diego Doropesa, Bartolomeo Ruiz, Pedro Ortiz, Francisco de Montilla tại An Quảng (Quảng Yên), Đàng Ngoài. Năm 1591 tại Thanh Hóa, linh mục Pedro Ordoñez de Cevallos, người Tây Ban Nha, bị bão, đã đến An Trường, kinh đô nhà Lê lúc bấy giờ và rửa tội cho công chúa Mai Hoa (Maria Flora) cùng khoảng 100 người khác. Công chúa là chị của vua Lê Thế Tông. Hiện nay, ở làng Vạn Lại vẫn còn nền nhà thờ và giếng Giatô của công chúa[6].

2.2. Giai đoạn mở đạo chính thức (1615-1659)

Giai đoạn này kéo dài từ năm 1615-1665 với các vị thừa sai Dòng Tên, ở cả hai miền Nam Bắc, lấy sông Gianh làm ranh giới. Phía Nam gọi là Đàng Trong, do các chúa Nguyễn cai quản. Phía Bắc gọi là Đàng Ngoài do vua Lê, chúa Trịnh nắm quyền. Nhờ kinh nghiệm hội nhập văn hoá của linh mục Matteo Ricci (1582) ở Trung Quốc và Valignano ở Nhật Bản, các thừa sai quan tâm đến việc học ngôn ngữ, phong tục dân Việt và giảng đạo bằng tiếng Việt.

Công cuộc truyền giáo ở Đàng Trong bắt đầu năm 1615 với linh mục Francesco Buzomi, Lm. Diego Carvalho và các trợ sĩ Dòng Tên ở Cửa Hàn, Đà Nẵng. Tiếp theo là các Lm. Francesco de Pina, Cristoforo Borri, nhất là Alexandre de Rhodes (Đắc Lộ).

Ở Đàng Ngoài, chúa Trịnh Tráng đón tiếp giáo sĩ Giuliano Baldinotti, người Ý, nhưng việc truyền giảng Tin Mừng chỉ đạt được nhiều kết quả tốt đẹp sau khi hai cha Pedro Marquez (Bồ Đào Nha) và Đắc Lộ (người Pháp) cập bến Cửa Bạng, Thanh Hóa, ngày 19/3/1627. Các thừa sai biên soạn giáo lý, sáng tác kinh nguyện thơ văn bằng chữ Nôm, chữ Quốc ngữ với sự trợ giúp của các thầy giảng có học thức như cụ Gioakim, sư cụ chùa Phao, sư cụ Manuel, cụ Nghè Giuse… Đáng kể nhất là các thừa sai Gaspar d’Amaral, António Barbosa, Girolamo Majorica (người Ý), đặc biệt là cha Đắc Lộ với những tác phẩm bằng chữ Quốc ngữ đầu tiên ấn hành ở Rôma năm 1651: Phép Giảng Tám Ngày, Từ điển Việt-Bồ-La và Ngữ pháp tiếng An Nam.

Đây là thứ chữ được các linh mục Dòng Tên gốc Bồ Đào Nha như João Ruis, Gaspar Luis, Cristoforo Borri, Francesco Buzomi, Francisco de Pina, Gaspar d’Amaral, Alexandre de Rhodes với sự cộng tác âm thầm của nhiều người Việt như Igesico Văn Tín, Bento Thiện, đã sáng tạo ra trong những năm 1620-1659[7].

Nhờ các “Thầy Giảng” và “Cậu Trùm” là những tông đồ giáo dân nhiệt thành, việc truyền giáo đã đạt được những kết quả ngoài sức tưởng tượng. Sau 37 năm truyền giáo ở Đàng Ngoài (25 linh mục và 5 trợ sĩ) và 50 năm truyền giáo ở Đàng Trong (39 linh mục và 1 trợ sĩ), các thừa sai Dòng Tên đã rửa tội khoảng 100.000 tín hữu (20.000 ở Đàng Trong và 80.000 ở Đàng Ngoài[8]. Việc rao giảng Tin Mừng được vua chúa Việt Nam quy định rõ ràng trong một số nơi chốn với nhiều hạn chế của các quan lại địa phương, nên các tín hữu gặp nhiều khó khăn trong việc giữ đạo và có nơi đã phải đổ cả máu đào để làm chứng đức tin như thầy giảng Anrê Phú Yên ở Quảng Nam ngày 26/7/1644.

3. Thời kỳ tăng trưởng (1659-1802)

Sau khi bị trục xuất vĩnh viễn khỏi Việt Nam năm 1645, cha Đắc Lộ về châu Âu tường trình cánh đồng truyền giáo chín vàng ở Việt Nam để kêu gọi có thêm thừa sai và giám mục sang Việt Nam. Ngày 9/9/1659, Đức Thánh Cha Alexander VII, qua Sắc chỉ Super Cathedram, quyết định thiết lập ở Việt Nam hai giáo phận và chọn hai vị thừa sai thuộc Hội Truyền giáo Paris (MEP) làm Đại diện Tông toà. Gp. Đàng Trong từ sông Gianh trở vào Nam, gồm cả phần đất Chiêm Thành, Chân Lạp do Đức cha Pierre Lambert de la Motte cai quản. Gp. Đàng Ngoài từ sông Gianh trở ra Bắc, bao gồm cả Lào và 5 tỉnh miền Nam Trung Quốc do Đức cha François Pallu coi sóc.

Chúng ta ghi nhận một số khó khăn chính của thời kỳ này.

Khó khăn trước hết là sự bất hoà giữa các thừa sai Dòng Tên và các giám mục Đại diện Tông toà thuộc Hội Thừa sai Paris cũng như giữa các thừa sai thuộc nhiều quốc tịch khác nhau. Khó khăn này bắt nguồn từ quan điểm cởi mở hay đóng kín với việc hội nhập văn hoá bản địa, nhất là với việc tôn kính Đức Khổng Tử và thờ cúng tổ tiên. Khó khăn thứ hai là tính cách bất hợp pháp của Công giáo do các sắc chỉ cấm đạo của vua chúa. Nhiều vị thừa sai nước ngoài cũng như linh mục Việt Nam đã bị giết hại dưới thời các chúa Trịnh Tạc (1657-1682), Trịnh Sâm (1767-1782) ở ngoài Bắc; chúa Nguyễn Phúc Lan (1635-1648), Nguyễn Phúc Khoát (1738-1765), Nguyễn Phúc Thuần (1765-1777) ở miền Nam, cũng như thời vua Cảnh Thịnh (1782-1802), nhà Tây Sơn, ở miền Trung.

Các vị vua chúa cho rằng đạo Công giáo dạy nhiều điều trái ngược với luân thường đạo lý khi cổ vũ ý niệm dân chủ cho rằng mọi người đều là anh em con của một Đức Chúa Trời và không ai có quyền sinh sát trong tay như ông vua trong chế độ quân chủ, cổ vũ hôn nhân “một vợ, một chồng” trái với tục đa thê có từ lâu đời trong xã hội, và chủ trương nam nữ bình đẳng đi ngược với quan niệm ngàn đời của Nho giáo “Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”. Hàng chục ngàn giáo dân (khoảng 30.000) đã bị giết chết chỉ vì muốn bảo vệ đức tin và những sự thật đó. Họ chấp nhận bị tù đày, bị ngược đãi, bị cướp bóc tài sản, bị phân sáp vào các làng người không có đạo để làm nô lệ chứ nhất định không bỏ đạo. Trước tình cảnh đó, các vị thừa sai nước ngoài đã đi tìm một giải pháp mới, khiến cho sau này người Pháp có điều kiện can thiệp và xâm chiếm Việt Nam bằng vũ lực[9]. Sau khi vua Quang Trung Nguyễn Huệ đại phá quân Thanh ở Thăng Long ngày 30/1/1789 và mất năm 1792, con là Quang Toản mới 10 tuổi lên nối ngôi, lấy niên hiệu là Cảnh Thịnh. Mọi việc triều đình do các quan lại chuyên quyền nắm giữ, tướng tá thì ganh ghét xâu xé lẫn nhau, trong khi thế lực của chúa Nguyễn Phúc Ánh, gọi tắt là Nguyễn Ánh, ngày một mạnh ở Gia Định. Ông là người biết tổ chức, chỉnh đốn lại xã hội về mọi lĩnh vực, không xâm phạm đến tín ngưỡng của dân chúng nên ông được người dân Nam bộ tin tưởng.

Đức cha Pigneau de Béhaine, quen gọi là Cha Cả Bá Đa Lộc, Đại diện Tông toà Đàng Trong (1771-1799), đã hết lòng giúp đỡ Nguyễn Phúc Ánh, lúc đó đang bị khốn đốn bởi cuộc vây hãm của quân Tây Sơn. Ngài đã đưa hoàng tử Nguyễn Phúc Cảnh (mới lên 4 tuổi) sang Pháp và vận động người Pháp giúp đỡ tàu chiến, vũ khí để Nguyễn Phúc Ánh chống Tây Sơn và chúa Trịnh. Ước nguyện của các vị thừa sai và của Đức cha Bá Đa Lộc là chỉ muốn cho người Công giáo Việt Nam được an thân giữ đạo và đạo Chúa được mở rộng, vừa có lợi cho Giáo Hội, vừa tốt đẹp cho dân tộc Việt Nam. Đức cha đã nuôi dạy hoàng tử Cảnh ở dinh Tân Xá. Năm 13 tuổi, hoàng tử được phong làm Nguyên Soái Quận Công, theo cha đi chinh chiến, lập nhiều chiến công.

Sau khi ở Pháp về năm 1789, hoàng tử Cảnh không chịu làm lễ bái trước bàn thờ chư vị tiên đế khiến vua Gia Long rất khó chịu. Đây cũng là một trong những nguyên nhân sâu xa khiến vua Gia Long không chọn hoàng tôn Đán mà lại chọn người con nuôi là hoàng tử Đảm sau này. Chính Đức cha cũng đã khuyên hoàng tử Cảnh phải tôn trọng tục lệ thờ kính ông bà và lễ bái trước bàn thờ chư vị tiên đế[10]. Ước mơ của các thừa sai về một ông vua theo đạo Công giáo và cho người Công giáo được hoàn toàn tự do hành đạo như vua Constantinus ở đế quốc Rôma vào năm 313 hoàn toàn tan biến với cái chết của Đức cha Bá Đa Lộc (9/10/1799) và của hoàng tử Cảnh (1801).

Tuy nhiên, dù chịu nhiều thử thách và bách hại vì đức tin, số tín hữu ở cả 3 giáo phận vẫn tăng lên không ngừng. Vào năm 1802, GHVN đã thành hình cơ cấu tổ chức gồm 3 giáo phận với 121 linh mục Việt Nam, 17 thừa sai gồm cả giám mục và linh mục, khoảng 320.000 tín hữu.

4. Thời kỳ phát triển (1802-1960)

Thời kỳ này có thể chia thành 2 giai đoạn: giai đoạn thử thách và giai đoạn tương đối an lành. Trong thời kỳ này, đất nước đã thống nhất về mặt chính quyền: dân tộc Việt sống dưới chế độ quân chủ chuyên chế của các vua triều Nguyễn, đặt kinh đô tại Phú Xuân, Huế.

4.1. Giai đoạn thử thách (1802-1886)

Gọi là giai đoạn thử thách vì trong suốt giai đoạn này, trừ 18 năm đầu dưới triều vua Gia Long (1802-1820), 63 năm còn lại GHVN phải chịu đựng những cuộc bách hại tàn khốc do vua quan triều đình Nhà Nguyễn cũng như do sĩ phu và dân chúng theo phong trào Văn Thân gây nên.

Năm 1802, Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi vua, lấy hiệu là Gia Long, mở đầu triều đại nhà Nguyễn (1802-1945) đóng đô ở Phú Xuân, tức Huế ngày nay. Vì nhớ công ơn Đức cha Bá Đa Lộc, nên vua Gia Long đã cho phép tự do truyền bá đạo Công giáo. Nhà vua có thiện cảm với đạo nhưng không muốn theo vì thấy luật lệ đạo quá nghiêm khắc đối với tục đa thê và việc thờ cúng tổ tiên. Ông nói: “Đạo Thiên Chúa rất hợp với đạo lý nhưng quá nghiêm khắc với tục đa thê. Đối với ta, không thể chỉ lấy một vợ, mặc dù ta thấy là trị cả nước còn dễ dàng và ít mệt mỏi hơn là giữ cho gia đình ta được yên ấm[11].

Một vài lý do tiềm ẩn

Hoàng tử Cảnh qua đời vì bệnh đậu mùa năm 1801 lúc mới được 22 tuổi, vua Gia Long phế bỏ người cháu đích tôn là Đán và chọn người con nuôi là hoàng tử Đảm kế vị, mặc dù nhiều quan lại triều đình lúc ấy can gián vua nên giữ chính tông, “đích tôn thừa trọng”, trong số đó, Tả Quân Lê Văn Duyệt là người phản đối mạnh mẽ nhất. Sau khi vua Gia Long băng hà, hoàng tử Đảm lên ngôi (15/2/1820) lấy niên hiệu là Minh Mạng. Vì muốn bảo vệ ngai vàng cho dòng tộc nên vua đã xử tội hoàng tôn Đán thông dâm với mẹ là bà Vương Cơ Tống Thị Quyên năm 1824. Bà bị dìm xuống nước cho đến chết, còn Đán và con cháu bị giáng làm thường dân[12].

Dù Lê Văn Duyệt đã chết (ngày 25/8/1832), vua Minh Mạng vẫn giữ lòng hận thù. Vua bãi bỏ chức Tổng Trấn, lập toà án xét xử Lê Văn Duyệt tội hà lạm công quỹ. Vua cho đào mả và san bằng mộ bia khiến cho người con nuôi của ông là Lê Văn Khôi nổi loạn chống lại triều đình. Cuộc nổi loạn của Lê Văn Khôi cũng là một lý do thúc đẩy vua Minh Mạng thù ghét và bách hại người Công giáo và tạo nên những hiểu lầm về Thánh tử đạo Joseph Marchand Du[13]. Ngày 8/9/1835, quân triều đình chiếm lại được thành Phiên An (Gia Định). Vua truyền chém đầu, phân thây 1.994 người, trong đó có cha Phước, cha sở Chợ Quán, và chôn chung trong một hố sâu gọi là Mả Ngụy. Sáu người còn lại bị giải về kinh đô Huế, trong đó có cha Marchand Du, người đã bị Lê Văn Khôi dùng vũ lực ép phải vào thành Phiên An, vì tin tưởng cha có phép màu và lôi kéo được các tín hữu chống lại triều đình, như các thư cha Marchand Du còn để lại đã minh chứng điều đó. Thật ra, trong số 2.000 người phản loạn, chỉ có 26 người đàn ông và 40 đàn bà trẻ con là người Công giáo[14] Một câu hỏi đặt ra cho những người thời trước và ngay cả thời nay: tại sao người Việt Nam thời đó lại theo đạo Công giáo bất chấp những thử thách, gian lao ?

Đi tìm con đường sống

Câu trả lời đơn giản là người Công giáo thời đó muốn đi tìm con đường sống trong cái lẽ tử sinh của kiếp người. Hơn nữa, với những sắc dụ cấm đạo, nhiều người đã gặp khó khăn trong việc học hành, thi cử, làm lụng, bán buôn. Có người còn bị đày ải, giết hại. Họ vẫn muốn sống với tất cả niềm vui của Phúc Âm và muốn chứng minh những sự thật của Phúc Âm.

Nho giáo dạy người dân phải trung với vua, vì vua là thiên tử thay trời trị dân, có toàn quyền sinh sát đến độ “quân xử thần tử, thần bất tử bất trung”. Vì thế, người Công giáo không bao giờ tỏ thái độ bất trung, bất kính với vua. Họ luôn nhớ đến cái chết của Chúa Giêsu, Con của Chúa Cha là Vua Trời đất, nên Người cũng là Thiên Tử. Thay vì bắt người khác phải chết thì Chúa Giêsu lại chết thay cho mọi người để đền tội và hoà giải với mọi người. Người Công giáo lại được dạy chỉ có Chúa Trời là chủ của sự sống vĩnh hằng, nên dù sự sống ở đời này có mất đi, họ sẽ được sống mãi mãi ở đời sau. Chúa Trời là cha chung của mọi người nên tất cả đều là anh em, con cái của “Cha trên trời”, và đều bình đẳng với nhau về mặt giá trị làm người dù vẫn có tôn ti trật tự trong xã hội. Hơn nữa, sau cuộc sống lữ hành ở trần thế này còn có cuộc sống vĩnh hằng ở thế giới bên kia mà người ta sẽ đạt được nhờ lòng tin vào Đức Giêsu. Chính trong tinh thần ấy, giá trị con người được nâng cao đến tột đỉnh.

Niềm tin vào đời sống vĩnh cửu lại thể hiện rất trong sáng và tích cực trong đời sống thường ngày và nó trở nên một sức hút kỳ lạ của tôn giáo mới đối với mọi người dân Việt thời đó vì họ chưa hiểu biết nhiều về khoa học, chưa biết giữ vệ sinh nên nhiều trẻ sơ sinh bị chết yểu, nhiều sản phụ mắc bệnh hậu sản. Hằng ngày, người ta thường dùng nước ao tù để tắm rửa, ăn uống, nên dễ bị các bệnh toét mắt, ghẻ lở, giun sán, đường ruột… Các người Công giáo, nhờ được các giáo sĩ Tây Phương, các thầy giảng, các dì phước Mến Thánh Giá (MTG) dạy các kiến thức về khoa học phổ thông, nên biết lọc nước bằng than cát sỏi để dùng và nấu nước chín để uống, giữ vệ sinh thân thể nên trở thành những người khoẻ mạnh, xinh đẹp. Các nữ tu Mến Thánh Giá thời ấy trở thành những nữ hộ sinh và y tá nông thôn kèm thêm việc dạy chữ quốc ngữ cho đồng bào.

Trong xã hội phong kiến xây dựng trên Nho giáo: nữ giới bị khinh miệt, đối xử bất bình đẳng. Đạo Công giáo, với chế độ một vợ một chồng, nam nữ bình đẳng và quan niệm mỗi người đều là con cái Chúa, đã giới thiệu những nét mới cho xã hội Việt Nam. Gia đình người có đạo an vui, hạnh phúc, trong nhà lúc nào cũng vang tiếng cười vì không có cảnh “vợ cả, vợ lẽ”, “con bà, con tôi”, nam nữ đều được tôn trọng, được học hành, làm việc như nhau.

Thời đó, chữ nghĩa “quý giá” và đắt đỏ, cả làng may ra chỉ có một vài người giàu mới có đủ điều kiện cho con cháu đi học chữ Nho, hy vọng đỗ trong các kỳ thi Hương, thi Hội, thi Đình do nhà vua tổ chức để ra làm quan cho triều đình. Nhưng các tín hữu Công giáo, với lý lịch không tốt vì lý do theo “tả đạo”, với bản án đó khắc trên trán, trên mặt, họ không thể đi học, đi thi, buôn bán hay làm bất cứ nghề nghiệp chính thức nào. Tuy nhiên tất cả “người có đạo”, dù là nam hay nữ, trẻ hay già, đều được khuyến khích học hành, lúc đầu là chữ Nho, chữ Nôm, sau là chữ Quốc ngữ. Kinh sách đọc hằng ngày, giáo lý học hằng tuần, càng làm cho người có đạo dễ học hành và truyền bá chữ nghĩa cho nhau hơn.

Chữ quốc ngữ là thứ chữ ghi âm tiếng nói của người Việt trong đời sống thường ngày bằng mẫu tự Latinh với 24 chữ cái thay vì 214 bộ chữ đơn từ 1 nét đến 17 nét trong bộ chữ Hán của người Trung Hoa, vừa dễ đọc dễ viết, ích lợi trong đời sống giao tiếp xã hội, nên được dân chúng thích thú theo học và truyền lại cho nhau, chứ không phải chỉ trong cộng đồng những người Công giáo. Điều này đụng chạm đến lòng tự ái của những quan lại triều đình, của giới sĩ phu tự cho là những “người có học” trong xã hội thời đó. Đây cũng là nguyên nhân quan trọng để hiểu tại sao phong trào Văn Thân lại hô hào “bình Tây, sát Tả” sau này khi người Pháp xâm chiếm nước ta.

Chúng ta đừng quên chữ Nho cho đến đầu thế kỷ XX vẫn là chữ chính thức của nhà nước quân chủ ở Việt Nam. Sự đố kỵ của các Nho sĩ và quan lại đối với chữ Quốc ngữ là một trong những lý do quan trọng dẫn đến những cuộc tàn sát người Công giáo trong phong trào Văn Thân. Thật ra, chữ Nôm vẫn được tôn trọng trong cộng đồng người Việt Công giáo với hàng trăm tác phẩm đủ thể loại được biên soạn trong thời kỳ này. Ta có thể nêu tên một tác phẩm tiêu biểu: Sách dạy tập đi đàng nhân đức trọn lành của Cố Chính Philipphê Trung (M. Sérard), viết năm 1799. Sách gồm 24 quyển, mỗi quyển trung bình 200 trang, toàn bộ là 4.800 trang. Mỗi trang có từ 10-12 dòng, mỗi dòng từ 30-32 chữ. Tổng cộng khoảng 1.500.000 chữ Nôm, dài gấp 9 lần Truyện Kiều của thi hào Nguyễn Du.

Chúng ta cũng nên ghi nhận rằng: đạo Công giáo đã góp phần không nhỏ vào cuộc thăng hoa các nền văn hoá của người Chăm, người Khơ Me ở phương Nam. Nền văn hoá tinh thần của Kitô giáo theo đoàn người mở đất Phương Nam đã thay đổi nền văn hoá vật chất, tính giao với những Linga và Yoni của dân tộc Chiêm Thành và Thuỷ Chân Lạp.

Về phương diện kinh tế, người theo đạo cực khổ tư bề vì bị áp bức bởi bọn cường hào ác bá trong làng, vì sưu cao thuế nặng, vì bị cấm hành nghề. Họ chỉ còn cách từ Bắc xuôi vào miền Nam, đến những phiên trấn mới mở, sống chung với những kẻ bị kết án lưu đày, cùng che giấu lai lịch của mình bằng những tên gọi trống không: anh Hai, chị Ba, cô Tư... để được yên thân giữ đạo. Họ sống đùm bọc lẫn nhau, coi nhau như anh em họ hàng, nên gọi là “họ đạo” hay “giáo họ”, truyền nghề cho nhau để cùng làm cùng hưởng, làm ra cái gì cũng phải thật tốt, bán ra cái gì cũng phải thật rẻ, lúc nào cũng nói thật, nói thẳng để khỏi làm “ô danh Chúa và nhục cho người có đạo”. Nhờ đoàn kết yêu thương như thế, người có đạo luôn sống sung túc, nên mới có câu “theo đạo lấy gạo mà ăn”.

Tuy nhiên, những làng Công giáo trù phú kia lại trở thành mồi ngon cho một số người, nhất là khi những người này được thúc đẩy cướp phá, nhân danh lòng ái quốc trong phong trào Văn Thân. Để đối phó trong cơn bách hại gắt gao, người có đạo rủ nhau trốn vào những nơi hoang vu, phá rừng làm rẫy như La Vang, Trà Kiệu ở miền Trung và nhiều vùng xa, vùng sâu ở miền Nam. Không ngờ, chính lối sống này lại làm cho quê hương phát triển về mặt kinh tế, mở mang bờ cõi quốc giá.

Đến đây, ta có thể hiểu tại sao đạo Công giáo lại phát triển nhanh chóng ở Việt Nam vì đạo chỉ cho người dân con đường sống khỏe mạnh, tốt đẹp, khôn ngoan, sung túc, cao quý, xứng với phẩm giá con người. Vì thế, dù phải chịu đựng thiệt thòi, bất công, thậm chí bị giết hại, nhiều người vẫn theo đạo cũng như các tín hữu vẫn trung thành với Chúa và yêu thương nhau. Số tín hữu vẫn không ngừng gia tăng trong cả 2 miền Nam Bắc ngay trong những giai đoạn thử thách cam go nhất.

GHVN vào năm 1850 có 8 giáo phận với số giáo dân ở 4 giáo phận miền Bắc là 380.000 người, 147 linh mục và 4 giáo phận trong miền Nam khoảng 120.000 người và 80 linh mục.

Cuộc xâm lăng của người Pháp

Vua Minh Mạng chịu ảnh hưởng của các vua Trung Hoa và Nhật Bản ra nhiều chiếu chỉ cấm đạo Công giáo vào các năm 1825, 1833, 1836, 1838, theo đuổi chính sách bế quan toả cảng. Nhưng sau khi Trung Hoa thất trận trước các cường quốc châu Âu (1838-1839), nhà vua muốn thay đổi đường lối chính trị bằng việc cử phái đoàn do Phan Thanh Giản dẫn đầu sang Pháp năm 1840 để thương thuyết. Phái đoàn thất bại nên vào những năm cuối đời vua càng cấm đạo tàn khốc hơn[15]. Sau khi các thừa sai người Pháp bị bắt giam ở Huế năm 1843, giám mục Lefèbre bị bắt ở cửa Cần Giờ (1846) và thừa sai Duclos (Lộ) bị chết trong trại giam năm 1846, quân Pháp được lệnh bắn phá cảng Đà Nẵng ngày 15/4/1847. Lập tức vua Thiệu Trị ban hành sắc lệnh chống Công giáo ngày 03/5/1847 và người ta liên kết việc theo đạo Công giáo với việc làm tay sai cho Pháp, phản bội dân tộc. Nhiều nhà Nho đã tuyên truyền với dân chúng luận điệu này và không ít đồng bào đổi mối thiện cảm với người Công giáo trước đây thành ác cảm và hận thù kẻ phản quốc, nhất là khi người Pháp đánh chiếm các tỉnh Nam Kỳ.

Ngay sau khi vua Thiệu Trị băng hà ngày 4/11/1847, vua Tự Đức lên ngôi và ra ngay sắc chỉ cấm đạo năm 1848, vì nghi ngờ người Công giáo cấu kết với Hồng Bảo, anh cả của vua, âm mưu chiếm đoạt ngai vàng. Vua ban nhiều sắc chỉ cấm đạo trong suốt triều đại lâu dài của mình (1847-1883). Những sắc chỉ cấm đạo vào các năm 1848, 1852,1854,1855, nhất là năm 1857: “Giết ngay Tây dương đạo trưởng, bêu đầu 3 ngày ở những nơi công cộng và bị quăng xác xuống biển” đã thúc đẩy tàu Pháp bắn phá Đà Nẵng để thị uy. Năm 1858, chiến tranh giữa Pháp, Tây Ban Nha và Việt Nam bùng nổ. Quân Pháp chiếm thành Kỳ Hòa năm 1861, uy hiếp các tỉnh miền Đông Nam Kỳ.

Cuộc sát hại tập thể người Công giáo xảy ra nhiều nơi trên đất nước do lòng ái quốc của đồng bào phản ứng lại việc người Pháp xâm lăng. Tháng 7 năm 1861, vua ban hành lệnh phân tháp (phân sáp) người Công giáo vào các làng không Công giáo. Quân Pháp tiếp tục đánh chiếm và quân triều đình thất thủ ở khắp nơi.

Hoà ước Nhâm Tuất giữa Việt Nam và Pháp ký năm 1862 buộc triều đình Việt Nam phải tôn trọng tự do tôn giáo, phải nhường 3 tỉnh miền Đông Nam Kỳ cho Pháp. Năm 1867, Pháp chiếm 3 tỉnh miền Tây Nam Kỳ. Năm 1873, Pháp chiếm Hà Nội lần I và một số tỉnh ở đồng bằng sông Hồng, sau đó rút quân. Năm 1874, triều đình kí Hiệp ước Giáp Tuất nhường 6 tỉnh Nam Kỳ cho Pháp, hòa ước này có 22 khoản, trong đó có khoản 9 đề cập đến vấn đề tự do tôn giáo. Năm 1882, Pháp đánh Bắc Kì lần II rồi vào chiếm đóng kinh thành Huế.

Năm 1884, Hoà ước Giáp Thân với điểm chính là “Chính phủ Pháp bảo hộ Bắc Kỳ, lục tỉnh Nam Kỳ là thuộc địa Pháp và Trung Kỳ thuộc quyền cai trị của Triều đình Huế” nói lên sự suy tàn của đất nước và triều đình vua quan Việt Nam. Thật ra, tôn giáo chỉ là một cái cớ để người Pháp xâm lăng nước ta giống như nhiều nước ở phương Tây đi chiếm thuộc địa. Nhưng lý do “bảo vệ người có đạo” này lại là nguyên nhân dẫn đến việc tàn sát người Công giáo của phong trào Văn Thân.

(Còn tiếp)

Xin xem phần II tiếp theo:

http://ttmucvusaigon.org/tai-lieu/cuoc-hoi-nhap-van-hoa-cua-giao-hoi-cong-giao-viet-nam--1533-2019----phan-ii/