Cái nhìn "vượt thời gian" của thánh Phanxicô về BT Thánh Thể (1)

[ Điểm đánh giá5/5 ]1 người đã bình chọn
Đã xem: 3837 | Cập nhật lần cuối: 11/7/2014 1:52:22 PM | RSS

I. DẪN NHẬP

Bí tích Thánh Thể là nguồn mạch ơn cứu độ, được Chúa Giêsu thiết lập và Giáo Hội cử hành trong hơn hai ngàn năm qua. Nhưng những gì Giáo Hội tin và hiểu về Bí tích Thánh Thể lại có nhiều thăng trầm trong suốt dòng chảy của lịch sử ấy.

Nếu như các Kitô hữu tiên khởi có một niềm tin mãnh liệt vào Thánh Thể và sống kinh nghiệm sâu sắc về bí tích này, thì bước sang thời Trung cổ do chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng về Bí tích Thánh Thể, nên càng ngày Giáo Hội càng đánh mất kinh nghiệm sống động của Nhiệm Tích này. Hậu quả của nó là các Kitô hữu thời Trung cổ ngày càng xa cách với Bí tích Thánh Thể; Thánh Thể chỉ là bí tích để họ chiêm ngắm và thờ lạy, chứ không phải là thứ lương thực hằng ngày mang lại ơn cứu độ cho con người. Trong bối cảnh đó, chúng ta thấy thánh Phanxincô lại có những cách hiểu, cách sống Bí Tích Thánh Thể rất hợp với Tin Mừng và quan điểm của Giáo Hội hiện nay về Bí tích Thánh Thể. Phải chăng đây là cái nhìn “vượt thời gian” của ngài về Bí tích trung tâm của đời sống Giáo Hội?

Từ vấn nạn đó, người viết trở về với các Di Cảo của thánh Phanxicô để tìm hiểu niềm tin yêu và cách sống Bí tích Thánh Thể của ngài, và đối chiếu với nhãn quan thần học về Bí tích Thánh Thể hiện nay, nhằm giúp cho bản thân có được sự xác tín sâu xa hơn về niềm tin của mình vào Thánh Thể, và sống mãnh liệt hơn Bí tích Tình Yêu mà mình chiêm ngắm và cử hành mỗi ngày.

Nhân dịp mừng lễ thánh Phanxicô năm nay, cũng là dịp Anh Chị Em Phan Sinh Việt Nam cử hành bế mạc Năm Thánh Phan Sinh “80 năm hiện diện trên Đất Việt”, xin được chia sẻ cùng bạn đọc gần xa.

II. CÁI NHÌN “VƯỢT THỜI GIAN” CỦA THÁNH PHANXICÔ VỀ BÍ TÍCH THÁNH THỂ

Thánh Phanxicô không phải là nhà thần học theo nghĩa chặt, nhưng khi chiêm ngắm cuộc đời và cách thức ngài sống đức tin, chúng ta nhận thấy ngài có nhiều cái nhìn trực giác mang tính “vượt thời gian” về thần học. Trong số đó, cách hiểu và thực hành Bí tích Thánh Thể của ngài là một cái nhìn đặc sắc và rất có ý nghĩa với chúng ta hôm nay.

1. Bối cảnh của Bí tích Thánh Thể trong thời đại thánh Phanxicô

Thánh Phanxicô sinh vào thế kỷ 12 và sống trong thượng bán thế kỷ 13. Trong thời kỳ đầu của lịch sử Trung cổ Phương Tây, xã hội Ý đang có nhiều biến chuyển về mọi mặt. Giáo Hội Rôma đã chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng sâu rộng liên quan đến Bí tích Thánh Thể, được manh nha từ thế kỷ VI. Chúng ta thấy, Công đồng Latêranô IV, công đồng mà thánh Phanxicô tham dự, đã rất quan tâm đến cuộc khủng hoảng này.

Cuộc khủng hoảng này chủ yếu diễn ra do các tín hữu không còn chuyên cần tiếp rước Thánh Thể, nhưng lại đề cao việc tôn thờ và chiêm ngắm: “Người ta bắt đầu đặt ra nghi thức nâng cao Mình Thánh Chúa ngay sau khi truyền phép để dân chúng thờ lạy…nên việc rước lễ hằng ngày, đã được đức Giáo Hoàng Grêgôriô VII cổ võ ở thế kỷ trước không còn phổ biến” [1]. Tình trạng thờ ơ với Thánh Thể còn thể hiện nơi hàng giáo sĩ Công giáo lúc bấy giờ: “Công đồng Latêranô cũng đã cảnh cáo các giáo sĩ nhất là các giáo sĩ cao cấp, “cử hành thánh lễ mỗi năm không quá bốn lần, và tệ hơn nữa là không tham dự thánh lễ” [2]. Có lẽ vì cơn khủng hoảng này mà Công đồng đã đưa ra luật: Xưng tội ít nhất mỗi năm một lần và rước lễ trong mùa Phục Sinh.

Nguyên nhân chính dẫn đến cuộc khủng hoảng này là do nhiều người Kitô hữu buông thả trong đời sống luân lý và tôn giáo và quên lãng nhân tính của Đức Kitô. Từ đó người ta có xu hướng xa rời Bí tích Thánh Thể: “Các Kitô hữu chỉ xem Thánh Thể như một ‘mầu nhiệm đáng kính sợ, vì chỉ nhìn thấy Đức Kitô như là Thiên Chúa toàn năng, vị Chúa tể, vị Thẩm phán tối cao của vũ trụ, nên họ đã quên rằng Đức Kitô cũng là một con người, là người Anh, người Bầu Chữa cho họ trước toà Chúa” [3].

Trong bối cảnh của sự sợ hãi và tôn kính cực độ, việc rước lễ đối với tín hữu không còn là một sự tham dự vào hy tế của Đức Kitô, nhưng trở thành một phần thưởng ban cho những tâm hồn trong sạch. Từ đây nảy sinh một hướng linh đạo mới cũng góp phần làm giảm việc rước lễ: rước lễ được xem là nguyên lý để đạt đến sự trọn lành cá nhân. Và như thế việc rước lễ càng lúc càng được xem như độc lập với hy tế thánh giá.

Càng ngày, người ta càng xa lìa Bí tích Thánh Thể và hậu quả là những lạm dụng và những dị đoan về Thánh Thể: “Có người tin rằng chỉ cần nhìn lên Mình Thánh khi linh mục giơ lên cũng có sức xua trừ bệnh tật hoặc chết chóc, hoặc đem lại vận may” [4].

Đứng trước bối cảnh đó, thánh Phanxicô không bị cuốn hút vào xu hướng của người đương thời, trái lại ngài có được một cách hiểu và thực hành mang tính trung thành và sáng tạo về Bí tích Thánh Thể. Chúng ta nhận thấy điều đó nơi các Di cảo của ngài.

2. Bí tích Thánh Thể trong Di Cảo của thánh Phanxicô

Trong các Di cảo của thánh Phanxicô, chúng ta thấy nhiều lần ngài đề cập đến Bí tích Thánh Thể. Ngài dùng cụm từ “Mình và Máu Thánh Chúa” 18 lần, để chỉ về Bí tích Thánh Thể. Trong số các Di cảo, thì Huấn ngôn I, diễn tả cái nhìn cốt lõi của Phanxicô về Bí tích Thánh Thể. Giống như các Huấn ngôn khác, người ta không thể xác định được tính xác thực và niên đại của Huấn ngôn I; nhưng đây là một viên ngọc quý, là đầu mối giúp chúng ta khám phá ra cái nhìn của Phanxicô về Bí tích Thánh Thể. Theo các học giả Phan sinh thì, các bản văn của thánh Phanxicô không phải là những thiên khảo luận thần học tín lý, nhưng đó là những bản văn được viết theo yêu cầu của hoàn cảnh. Riêng các huấn ngôn thì tác giả Kajatan Esser cho rằng: “Các huấn ngôn là những lời chỉ giáo và khích lệ của Phanxicô. Tất cả được ra đời từ các hoàn cảnh khác nhau trong cuộc sống đời thường của anh em. Đó là những viên ngọc quý báu chỉ dẫn con đường khôn ngoan thiêng liêng” [5].

Sau khi phân tích Huấn ngôn I về mặt văn chương và đạo lý, tác giả Nobertô Nguyễn Văn Khanh nhận xét: “Tảng đá làm nền tảng cho huấn ngôn này là lời tuyên bố của Đức Kitô: ‘Thầy là Đường, là Sự Thật và là sự Sống’. Đức Kitô là Đấng mặc khải, dẫn đưa con người đến cùng Chúa Cha. Tuy nhiên chúng ta không còn có thể gặp Đức Kitô trong con người Giêsu như xưa, nhưng chỉ có thể gặp Người trong phép Thánh Thể” [6]. Ngoài ra, thánh Phanxicô cũng đã đề cập đến Bí tích Thánh Thể trong Di chúc, trong các thư gởi tín hữu, thư gởi các giáo sĩ, thư gởi toàn dòng mà chúng ta sẽ đề cập tới trong bài viết này.

Các di cảo kể trên là nền tảng giúp chúng ta hiểu hơn quan điểm của thánh Phanxicô về Bí tích Thánh Thể. Theo đó, cái nhìn chính yếu của ngài xoay quanh cách hiểu và cách sống Bí tích Thánh Thể.

3. Cách hiểu của Phanxicô về Bí tích Thánh Thể

Trong bối cảnh của Giáo Hội Tây phương Trung cổ, các giáo sĩ và giáo dân đang đánh mất kinh nghiệm thiêng liêng về Bí tích Thánh Thể qua việc bỏ rước lễ và quên dần tính Hy tế của Thánh thể, thánh Phanxicô đã có những cách hiểu và thực hành rất hợp với Tin Mừng và truyền thống của các Kitô hữu sơ khai. Cách hiểu của ngài rất gần gũi với quan điểm thần học hiện đại về bí tích này.

3.1. Bí tích Thánh Thể nối tiếp mầu nhiệm nhập thể

Sinh thời, khi đứng trước mầu nhiệm Nhập thể của Con Thiên Chúa làm người, thánh Phanxicô thường ngất ngây và mê say mầu nhiệm ấy. Sử gia Tô-ma Cêlanô kể lại:

“Thánh Phanxicô thường mừng đại lễ Giáng sinh của Chúa Hài Đồng với một niềm vui bao la. Ngài cho rằng đó là ngày Lễ của các lễ. Ngài thường hôn kính háo hức các bức ảnh Chúa Hài Đồng và lòng cảm thương nồng nàn đối với Hài Nhi Giêsu, khiến ngài lắp bắp thốt ra những lời âu yếm như trẻ thơ bập bẹ. Danh thánh Chúa ngọt ngào như mật ong trong miệng ngài” [7].

Từ cảm nghiệm sâu xa này ngài đi đến việc so sánh việc Đức Giêsu đến trên bàn thờ mỗi ngày với việc người đến trong cung lòng Đức Trinh nữ Mria năm xưa: “Này đây hằng ngày Người hạ mình xuống (x. Pl 2,8) như xưa Người rời ngai vàng (x. Kn 18,15) mà đến trong lòng Đức Trinh Nữ. Hằng ngày Người đến với chúng ta một cách khiêm nhường. Hằng ngày Người rời cung lòng Chúa Cha (x. Ga 1,18) để ngự xuống trên bàn thờ, trong tay linh mục” [8].

Thánh Phanxicô xem hành vi truyền phép của linh mục trên bàn thờ như lần nhập thể mới của Đức Giêsu. Ngài từ cung lòng của Chúa Cha đến ngự trong cung lòng của Đức Trinh Nữ Maria. Và như thế “khi nhìn thấy Mình Thánh Chúa, thánh Phanxicô nghĩ đến Đức Kitô sinh ra từ Đức Trinh Nữ Maria. Bàn thờ giống như máng cỏ, nơi đó Con của Chúa Cha đến với loài người hôm nay” [9]. Để rồi từ bàn thánh đó chúng ta cũng được cưu mang Con Thiên Chúa như là mẹ của Ngài khi tiếp rước Thánh Thể.

Cái nhìn này về sau được Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II triển khai rõ hơn trong Thông điệp Ecclesia de Eucharistia:

“Khi truyền tin, Đức Maria cưu mang Con của Thiên Chúa trong thực tại thể lý là Mình và Máu Người, vì thế thể hiện trước trong chính bản thân Ngài điều xẩy ra cách bí tích ở một mức độ nào đó nơi mọi tín hữu rước Mình Máu Chúa dưới hình bánh rượu” [10].

Một cái nhìn thể lý về Thánh Thể là điều mà thánh Phanxicô quan tâm. Ngài cũng đã ví việc chúng ta chiêm ngắm và đón nhận Thánh Thể như là lúc chúng ta tiếp xúc trực tiếp với Chúa Giêsu bằng xương bằng thịt giống các tông đồ ngày xưa, và nhờ Thánh Thần soi dẫn chúng ta tin Ngài đang diện diện cụ thể với chúng ta:

“Như xưa, con mắt xác thịt của các thánh Tông đồ chỉ trông thấy thân xác của Người, nhưng các ngài tin rằng Người là Thiên Chúa, vì các ngài chiêm ngắm Người với con mắt được Thánh Khí soi dẫn. Ngày nay cũng thế, khi con mắt xác thịt của chúng ta trông thấy bánh và rượu, chúng ta hãy biết nhìn ra và tin vững đó là Mình và Máu cực thánh, hằng sống và chân thật của Người. Đó là phương thế Chúa dùng để ở mãi với các tín hữu như chính Người đã nói: “Này đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (x. Mt 28,20)” [11].

Tóm lại, theo thánh Phanxicô Bí tích Thánh Thể như phương thế để Chúa Kitô tỏ mình ra cho chúng ta và ở lại với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế như Ngài đã hứa. Đây là một sự tiếp nối mầu nhiệm Nhập thể của Con Thiên Chúa và kéo dài mầu nhiệm ấy trong lịch sử và cuộc sống của con người, để rồi từ đó Phanxicô liên tưởng tới mầu nhiệm Vượt Qua của Chúa Kitô.

3.2. Bí tích Thánh Thể là nghi thức tưởng niệm cuộc vượt qua của Chúa Kitô

Một cách hiểu tiếp theo của thánh Phanxicô về Bí tích Thánh Thể là nghi thức tưởng niệm cuộc vượt qua của Chúa Kitô. Đây là một tưởng niệm có giá trị mang lại ơn cứu độ cho chúng ta. Cái nhìn này thể hiện qua các điểm nhấn khác nhau của ngài.

* Bí tích Thánh Thể là hy tế cứu chuộc của Giao ước mới

Chúng ta thấy trong Di cảo, thánh Phanxicô dùng đến các từ Hy lễ (Sacrificium) Hiến tế (Sacrificare) , để chỉ Bí tích Thánh Thể và việc cử hành Thánh Thể [12]. Đó là những bằng chứng cho ta thấy Phanxicô tin Thánh Thể như một hy lễ.

Thêm nữa, trong các bản văn đề cập đến Bí tích Thánh Thể, Phanxicô không dùng từ Thánh Thể, nhưng ngài dùng từ “Mình và Máu Chúa” . Điều này diễn tả hy tế trong các Giao ước giữa con người và Thiên Chúa. Chính thánh Phanxicô cũng đã nói nhiều đến “Máu của Giao ước”, “Giao ước mới”, “Mình và Máu của Giao ước mới” . Đây cũng là những bằng chứng rõ ràng, giúp chúng ta hiểu về tính chất Giao ước của Bí tích Thánh Thể mà Phanxiô đã bàn tới. Quan điểm thần học này quả là mới lạ trong thời đại của ngài, nhưng nó lại là một đề tài đã hấp dẫn các thần học Công đồng Vaticanô II và hậu Công đồng khi họ bàn về Bí tích Thánh Thể. Mới đây nhất, Tông huấn hậu thượng Hội đồng Giám mục, Sacramentum Caritatis đã đề cập tới:

“Thật là ý nghĩa khi cùng những lời đó đã được lặp lại trong mỗi lần cử hành Thánh Lễ, lúc linh mục mời gọi chúng ta tiến đến bàn thờ: ‘Đây Chiên Thiên Chúa Đấng xoá tội trần gian. Phúc cho ai được mời đến dự bữa tiệc của Người.’ Chúa Giêsu là con chiên vượt qua đích thực đã tự nguyện hiến mình để cứu chuộc chúng ta, và vì thế đã thực hiện giao ước mới và vĩnh cửu. Bí Tích Thánh Thể chứa đựng tính mới mẻ trọn vẹn được ban cho chúng ta mỗi khi cử hành. (19)” [13].

* Bí tích Thánh Thể là nghi thức tưởng niệm tình yêu của Chúa Giêsu.

Thánh Phanxicô quan niệm rằng, vì yêu thương nhân loại, Chúa Cha đã ban Bí tích Thánh Thể cho loài người để họ tiếp nhận Con của Người, Đấng cứu chuộc họ, nên Ngài đã nhắc nhở mọi người cử hành Bí tích Thánh Thể với ý hướng ngay lành và thánh thiện: “Anh em hãy tiến dâng hy lễ chân thật là Mình và Máu cực thánh Chúa Giêsu Kitô một cách cung kính với ý hướng thánh thiện và tinh tuyền...Nhờ ơn Chúa giúp anh em hãy quy hướng mọi tâm tư, tình cảm về Thiên Chúa Tối cao, chỉ ước ao làm đẹp lòng một mình Người mà thôi” [14]. Đây là một lời khuyên giúp các tín hữu đáp lại lời mời gọi của Chúa Giêsu: “Anh em hãy làm việc này để nhớ đến Thầy”. Nó liên hệ đến nghi thức tưởng niệm Chúa Kitô trong thánh lễ. Theo thánh Phanxicô đây là một sự tưởng niệm mang tính sống động về sự hiện diện của Đức Kitô.

Với cái nhìn khá tinh tế về Thánh Thể, thánh Phanxicô luôn nghĩ đến việc kết hợp với Chúa Kitô Thánh Thể. Chính ngài thường rước lễ một cách sốt sắng và lòng sùng kính này của ngài lôi cuốn được nhiều người. Khi rước lễ, ngài bày tỏ tất cả sự tôn kính phải có đối với bí tích cao siêu ấy [15].

Hơn nữa, ngài đã nhiều lần nhắc đến lệnh truyền của Đức Kitô: “Anh em hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”. Và như thế, cử hành Thánh Thể là việc chúng ta đáp lại lời Chúa Giêsu và tham dự vào hy lễ thập giá của Ngài. Đó là việc tưởng niệm tình yêu cứu chuộc của Chúa Giêsu năm xưa: “Đối với thánh Phanxicô, bánh Thánh Thể là lương thực hằng ngày để tưởng nhớ đến tình yêu của Đức Kitô, đã biểu lộ trong toàn bộ cuộc sống trần gian của Người và đỉnh cao nhất là cây thánh giá” [16].

Cái nhìn

* Bí tích Thánh Thể biểu hiện tình hiệp thông huynh đệ

Bí tích Thánh Thể là nghi thức tưởng niệm tình yêu của Chúa Kitô, nên được thánh Phanxicô quan niệm là biểu tượng hàng đầu của tình hiệp thông và yêu thương huynh đệ.

Chúng ta biết, vào thời đại của thánh Phanxicô mỗi linh mục chỉ được quyền làm lễ riêng mỗi ngày, chưa có thánh lễ đồng tế. Nhưng thánh Phanxicô muốn mỗi ngày có một thánh lễ chung trong cộng đoàn, ở đó các anh em hiệp thông với Chúa Thánh Thể và với nhau: “Vì vậy, nhân danh Chúa, tôi hết lòng khuyến khích anh em: tại các nơi anh em ở, mỗi ngày, anh em hãy cử hành một thánh lễ mà thôi theo thể thức của Hội Thánh” [17]. Vì vậy, mỗi nhà khuyến khích các anh em linh mục tham dự thánh lễ của các anh em linh mục khác: “Nếu ở đó (trong cộng đòan) có nhiều linh mục, thì vì lòng yêu mến đối với Thiên Chúa là Tình yêu, người này hãy vui lòng dự lễ của người kia” [18]. Và như thế, việc cử hành thánh lễ chung trong cộng đoàn và nhiều linh mục tham dự một thánh lễ là nhắm đến sự hiệp thông huynh đệ trong Thánh Thể. Một tác giả đã nhận định rất hay về quan điểm này rằng: “Điều thánh Phanxicô Assisi nhắm khi muốn chỉ có một thánh lễ hằng ngày trong mỗi cộng đoàn, đó là gìn giữ mối dây bác ái huynh đệ, và mối dây ấy không tỏ lộ lúc nào cách hiển nhiên hơn là khi cùng dâng hiến hy tế Thánh Thể” [19]. Sự hiệp thông trong thánh lễ đồng tế là một nét mới được Giáo Hội khuyến khích và cổ võ từ giáo huấn của Công đồng Vaticanô II: “Việc đồng tế biểu lộ chính đáng tính hợp nhất của chức linh mục” [20]. Đấy là điều mà thánh Phanxicô đã sống và dạy anh em thực hành từ nhiều trăm năm trước nay lại được Giáo hội chính thức nhìn nhận.

Một cử chỉ khác của thánh Phanxicô vào những ngày cuối đời cũng thể hiện tình hiệp thông huynh đệ, giống như Chúa Giêsu đã cử hành trước cuộc tử nạn của Ngài. Nói đúng hơn Phanxicô đã bắt chước Chúa Giêsu. “Ngài xin anh em môt cái bánh mì, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho mỗi người một miếng nhỏ. Ngài cũng xin đọc đoạn Tin Mừng theo thánh Gioan: “Trước lễ vượt qua, Chúa Giêsu.. .và người đã yêu họ đến cùng...(x.Ga 13, 1-15)” [21].

Ở đây, thánh Phanxicô bắt chước Chúa Giêsu với ý nghĩa là hiệp thông anh em trong lúc anh em của ngài đang hoang mang vì gần phải xa cách người cha yêu dấu. Chính sử gia Tôma Cêlanô đã nhận thấy điều này: “Ngài làm như thế để tưởng niệm bữa Tiệc ly mà Chúa đã cử hành với các môn đệ Ngài làm những cử chỉ ấy để tưởng nhớ đến Chúa và để cho các anh em của ngài thấy lòng ngài yêu thương họ đến chừng nào”. Thực vậy, thánh Phanxicô xem Bí tích Thánh Thể là chứng cứ tối cao của tình thương mà Chúa Kitô dành cho các môn đệ. Vì thế, khi thấy anh em khóc than đau đớn, ngài không biết làm gì hơn là lặp lại cùng một cử chỉ yêu thương của Chúa Kitô: “cử chỉ bẻ bánh” . Điều này cũng được thể hiện trong sách Gương trọn lành: “Như Chúa đã muốn dùng một bữa ăn cuối với các môn đệ vào ngày Thứ Năm Tuần Thánh trước khi chịu chết, để làm dấu chứng tỏ tình yêu thương của Người, thánh Phanxicô, con người noi gương Chúa cách hoàn hảo, cũng muốn nêu lên cùng một dấu chứng tỏ tình thương như vậy” [22]. Đây là một việc làm có một không hai trong lịch sử mà vị thánh nghèo muốn bắt chước Chúa Giêsu để tỏ bày tình yêu thương chân thành của ngài với anh em đang quây quần bên giường bệnh của mình.

Chiều kích hiệp thông huynh đệ của Bí tích Thánh Thể ngày nay cũng được Giáo Hội nhấn mạnh: “Nơi các đoàn thể đó, tín hữu được tụ họp lại nhờ sự rao giảng Phúc âm Chúa Kitô và mầu nhiệm Tiệc thánh Chúa được cử hành, để nhờ Thịt và Máu Chúa, tất cả kết thành huynh đệ và thành một thân thể. Chúa Kitô vẫn hiện diện trong các cộng đoàn ấy, dù nhỏ bé nghèo hèn hay tản mác khắp nơi. Và nhờ Thần lực Người, Giáo Hội hiệp thành duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền” [23].

Thật vậy, đây là một chiều kích mà các nhà thần học hiện nay quan tâm, vì chúng có tầm quan trọng trong đời sống của các Kitô hữu. Một tác giả đã diễn tả rất hay quan điểm này rằng:

“Bí tích thánh thể biểu hiện hiệp thông nên chúng ta có thể nói về sự hiện diện của Chúa Kitô trong Bí tích Thánh Thể như là sự đồng hiện diện với Giáo Hội, hiện diện cho Giáo Hội và vì Giáo hội. Đồng thời Chúa Kitô là tấm bánh được bẻ ra trao cho mọi người, nên Bí tích Thánh Thể không chỉ biểu đạt sự quan hệ giữa Thiên Chúa và con người, nhưng còn là biểu đạt tính duy nhất của mỗi người trong tương quan với cộng đồng” [24].

Từ chiều kích hiệp thông huynh đệ, thánh Phanxicô đưa chúng ta đến một sự liên kết mới là Thánh Thể và Lời Chúa.

* Bí tích Thánh Thể và Lời Chúa

Đây là một trong những nét đặc biệt của thánh Phanxicô khi ngài hiểu về Bí tích Thánh Thể. Chúng ta thấy sau Công đồng Vaticanô II, Giáo Hội mới đề cao Lời Chúa và trả lại cho Lời Chúa tầm quan trọng ngang tầm với Thánh Thể trong cử hành thánh lễ. Thế nhưng, thánh Phanxicô từ thế kỷ 12 đã tôn kính Lời Chúa như một bí tích ngang tầm với Bí tích Mình và Máu Thánh Chúa. Thực vậy, mỗi lần thánh Phanxicô nói đến Bí tích Thánh Thể, đồng thời ngài cũng nói đến “các Lời Chí Thánh của Chúa”.

Theo thánh Phanxicô thì Lời Chúa được hiểu theo nghĩa rộng, Lời Chúa trong Kinh Thánh, trong phụng vụ, trong lời giảng dạy. Ngài nhắc đến lời trong công thức truyền phép Thánh Thể của linh mục: “Chúng ta biết rằng không thể có thân mình Chúa, nếu trước tiên không có lời truyền phép.” [25]; trong các bản văn phụng vụ; trong lời giảng dạy của các nhà thần học và các nhà giảng thuyết [26].

Từ đó, chúng ta thấy, thánh Phanxicô nhìn thấy trong Kinh Thánh một sự hiện diện sống động, sự hiện diện của Đức Kitô và ngài đã từng đến với Kinh Thánh như đến với Đức Kitô: “Để kiểm chứng lời tôi nói, sáng mai chúng ta đến nhà thờ, mở sách Phúc Âm và chúng ta sẽ xin lời khuyên của chính Chúa Kitô” [27].

Hơn nữa, mỗi lần đề cập đến Mình và Máu Thánh Chúa, thánh Phanxicô đều nói đến Lời Thánh Thiện của Chúa: “Thật vậy, chúng ta không có cũng không thấy được điều gì cụ thể về chính Đấng Tối cao ở đời này, ngoài Mình và Máu Chúa, những Danh hiệu và những Lời của Ngài: nhờ những bảo vật ấy, chúng ta đã được dựng nên, được cứu thoát khỏi chết và dẫn đưa vào cõi sống (x. 1Ga 3,14).” [28]. Theo các nhà thần học thời Trung cổ thì sự hiện diện “cách thể lý” là nói về sự hiện diện của Thiên Chúa trong Bí tích Thánh Thể sau khi đã truyền phép, nhưng đối với thánh Phanxicô thì sự hiện diện này đồng thời cả trong “những Danh hiệu và Lời của Người”. Như thế, đối với thánh Phanxicô những Lời thần linh cũng là dấu hiệu thể lý của Con Thiên Chúa, tương đương với Bí tích Thánh Thể. Mối liên hệ mật thiết trong tâm tưởng của thánh Phanxicô giữa Bí tích Thánh Thể và Lời Chúa cũng có một giá trị bí tích trong đó ngài gặp được sự hiện diện của Con Thiên Chúa.

Đây là một nét mới của thần học sau Công đồng Vaticanô II; Giáo Hội nhìn nhận giá trị ngang nhau của Thánh Thể và Lời Chúa trong thánh lễ như những nguồn lương thực thần linh cho con người: “Thánh lễ gồm hai phần, phần phụng vụ Lời Chúa và phần phụng vụ Thánh Thể được liên kết chặt chẽ đến nỗi chỉ tạo thành một hành vi phụng thờ duy nhất” [29].

Cái nhìn

* Tóm lại, thánh Phanxicô đã có một đức tin mãnh liệt vào chiều kích tưởng niệm cuộc vượt qua của Đức Giêsu trong Bí tích Thánh Thể từ rất sớm. Đó cũng là điều mà Công đồng Vaticanô II quan tâm và nhấn mạnh:

“Trong bữa tiệc sau hết, vào đêm bị nộp, Đấng Cứu Chuộc chúng ta đã thiết lập Hy Tế Tạ Ơn bằng Mình và Máu Người, để nhờ đó, Hy Tế Thập Giá kéo dài qua các thời đại cho tới khi Người lại đến, và cũng để ủy thác cho Hiền Thê yêu quý của Người là Hội Thánh tưởng nhớ sự chết và phục sinh của Người: đây là bí tích tình yêu, dấu chỉ hiệp nhất, mối dây bác ái, bữa tiệc Vượt Qua. Trong tiệc này, chúng ta nhận được Chúa Kitô làm của ăn, được tràn đầy ân sủng và được bảo đảm vinh quang tương lai" [30].

Ở điểm này, chúng ta thấy có một sự gặp gỡ nào đó giữa tư tưởng của thánh Phanxicô và quan niện thần học của Công đồng về chiều kích hy tế của Thánh Thể. Như thế, giáo huấn của Công đồng Vaticanô II đã làm mới lại và phong phú hoá quan điểm của Phanxicô về mầu nhiệm vượt qua của Thánh Thể hay mang đến chiều kích hy tế của Thánh Thể một sự mới mẻ về ý nghĩa vốn có của nó.

Từ những cách hiểu sâu sắc về Bí tích Thánh Thể nói trên, thánh Phanxicô không dừng lại ở đó, nhưng tiến xa hơn nữa, bằng cách sống những điều mình đã hiểu và cảm nghiệm về Bí tích Cực Thánh này.

(còn tiếp)

Quang Huyền, OFM

Nguồn: hocvienthanhthe.com

----------------------------

Chú thích:

[1] Nguyễn Văn Khanh, Chúa Giêsu Kitô trong tư tưởng thánh Phanxicô Asissi, luận án tiến sĩ, 1973, Nguyễn Gia Thịnh dịch, Tủ sách Phansinh, 2003, tr 286.
[2] Sđd, tr 287.

[3] Sđd, tr 290-291

[4] Nguyễn Đức Thông, Kết duyên, Các bí tích gia nhập đạo, 2007, tr 234.

[5] Kajatan Esser, Chú Giải Luật Dòng Phan sinh, Bản dịch của Trần Hữu Phương, Tủ sách Phan sinh, 2002.

[6] Nguyễn Văn Khanh, Sđd, tr 309.

[7] Tôma Cêlanô, Truyện ký thánh Phanxicô, cuốn I, (1Cl) Bản dịch của Nguyễn Gia Thịnh, Tủ sách Phansinh 2004, số 84 -86.

[8] Thánh Phanxicô, Huấn ngôn I (Hn 1), 16-18.

[9] Nguyễn Văn Khanh, Sđd, tr 311.

[10] Đức Gioan Phaolô II, Thông điệp Ecclesia de Eucharistia, số 55.

[11] Hn 1, 20-22.

[12] X. Hy lễ: Thư gởi các tín hữu, bản gốc 2 (2TTh), 11; Thư toàn dòng (TTd), 14; Thư thứ nhất gởi các anh Tổng Phục vụ (1TTpv), 3; Hiến tế: Thư gởi các tín hữu, bản gốc 2 (2TTh), 4; 1TTpv 2, Thư gởi các Giáo sĩ, bản gốc 2 (2TGs), 4.

[13] Tông huấn hậu thượng Hội đồng Giám mục, Sacramentum Caritatis, số 9.

[14] TTd 14,16.

[15] x. 2 Celanô 201

[16] Nguyễn Văn Khanh, Sđd, tr 324.

[17] TTd 30.

[18] TTd, 31.

[19] X. Nguyễn Văn Khanh, Sđd, tr 326.

[20] PV 57.

[21] 2 Cel 217; GT 88.

[22] Sách Gương trọn lành, l 88.

[23] GH 26

[24] Vũ Chí Hỹ, Thánh thể Bí tích của niềm hy vọng cánh chung, bài giảng. 2008.

[25] 1TGs 1-2.

[26] x.Dc 12 – 13

[27] 2 Celanô 15.

[28] 1TGs 3.

[29] PV 56.

[30] PV 47.