Tông thư Salvifici doloris - Về ý nghĩa đau khổ (4)

[ Điểm đánh giá5/5 ]1 người đã bình chọn
Đã xem: 2290 | Cập nhật lần cuối: 10/11/2019 5:28:10 PM | RSS

Tông thư Salvifici Doloris - Về ý nghĩa đau khổ của con người theo Kitô giáo

(tiếp theo)

IV. Đức Giêsu Kitô: Tình yêu thắng vượt đau khổ

14. “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì không phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16). Lời Chúa Kitô nói trong cuộc đối thoại với ông Nicôđêmô đưa chúng ta vào chính trung tâm hành vi cứu độ của Thiên Chúa. Lời đó cũng diễn tả yếu tính cứu thế luận Kitô Giáo, tức là yếu tính của Thần học về ơn Cứu Độ. Cứu Độ có nghĩa là giải thoát khỏi sự dữ, do đó Cứu Độ có liên quan mật thiết với vấn đề đau khổ. Theo những lời nói với Nicôđêmô, Thiên Chúa đã ban cho thế gian Người Con để giải thoát nhân loại khỏi sự dữ; mà sự dữ vốn bao hàm viễn tượng dứt khoát và tuyệt đối của đau khổ. Đồng thời, từ ngữ “ban” (Người đã ban) có nghĩa là sự giải thoát đó phải được Người Con Một thực hiện qua sự đau khổ của Người. Nhờ đó, tình yêu được tỏ hiện, một tình yêu vô biên của chính Người Con Một cũng như của chính Chúa Cha, Đấng đã ban Con Mình để đem lại ơn Cứu Độ. Tình yêu như vậy đối với con người, đối với thế gian, chính là tình yêu Cứu Độ.

Trong suy tư tổng quát về vấn đề này, chúng ta phải ý thức rõ ràng rằng, chúng ta đang ở trong chiều kích hoàn toàn mới mẻ của đề tài. Đó không phải là chiều kích nhằm xác định việc tìm kiếm ý nghĩa đau khổ, và theo một nghĩa nào đó, được đóng khung trong những giới hạn của sự công minh. Nhưng đây là chiều kích Cứu Độ mà dường như đã được diễn tả qua lời ông Gióp - người công chính - trong Cựu Ước ít là theo bản Phổ thông: “Tôi biết, phải, tôi biết Đấng cứu chuộc tôi vẫn sống, và trong ngày sau hết, tôi sẽ được nhìn ngắm Thiên Chúa của tôi” (G 19,25-26). Tới đây, nếu như ta đã ưu tiên hoặc gần như hoàn toàn tập trung khảo sát sự đau khổ tạm thời và đa dạng (như trường hợp ông Gióp), thì trái lại, lời Đức Giêsu nói với ông Nicôđêmô trên đây đề cập đến sự đau khổ theo nghĩa cơ bản và tối hậu của nó. Thiên Chúa ban Con Một để con người “khỏi phải chết”, và ý nghĩa “khỏi phải chết” càng sáng tỏ hơn qua những lời “nhưng được sống muôn đời”.

Con người “phải chết” khi “mất sự sống muôn đời”. Bởi vậy đối ngược với ơn Cứu Độ không phải chỉ là đau khổ tạm thời, một đau khổ nào đó, mà là đau khổ chung cục, nghĩa là mất sự sống muôn đời, bị Thiên Chúa ruồng bỏ, bị trầm luân. Người Con Một được ban cho nhân loại trước hết để giữ gìn nhân loại khỏi sự dữ, khỏi đau khổ chung cục đó. Người Con ấy, khi thi hành sứ mạng Cứu Độ, phải tiêu diệt sự dữ tận căn, vì từ gốc rễ này sự dữ đã phát triển trong lịch sử nhân loại. Gốc rễ thâm căn của sự dữ đã ăn sâu vào trong tội lỗi và sự chết, và như thế, nó là nguyên nhân làm mất sự sống muôn đời. Sứ mạng của Người Con Một là vinh thắng tội lỗi và sự chết. Bằng sự tuân phục cho đến chết, Người đã chiến thắng tội lỗi; và bằng sự Phục Sinh, Người đã chiến thắng cái chết.

15. Khi nói Đức Kitô có sứ mạng tiêu diệt sự dữ tận gốc rễ, chúng ta không chỉ nghĩ đến sự dữ và đau khổ tối hậu, có tính cách chung (để con người khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời) mà còn phải nghĩ - ít là một cách gián tiếp - đến sự dữ và đau khổ mang chiều kích nhất thời và có tính cách lịch sử. Quả vậy, sự dữ vẫn liên quan đến tội lỗi và sự chết. Và phải thật khôn ngoan để nhìn nhận đau khổ của con người như là hậu quả của tội lỗi cụ thể (như dẫn chứng rõ ràng trong chuyện ông Gióp, người công chính), nhưng ta không thể tách rời đau khổ của con người ra khỏi tội từ nguyên thủy, khỏi cái mà Thánh Gioan gọi là tội của thế gian (Ga 1, 29), khỏi hậu trường tội lỗi của những hành vi cá nhân và những tiến trình xã hội trong lịch sử nhân loại. Nếu như ở đây không được phép áp dụng tiêu chuẩn hạn hẹp của sự liên hệ trực tiếp giữa tội và hình phạt (như 3 người bạn của ông Gióp đã đưa ra), thì cũng không được loại trừ tiêu chuẩn cho rằng từ nguồn gốc của đau khổ đã có những thỏa hiệp đủ loại với tội lỗi.

Về sự chết cũng vậy. Rất thường khi người ta mong mỏi cái chết như là sự giải thóat khỏi đau khổ ở đời này. Đồng thời, chúng ta không thể không biết rằng, cái chết được coi như cuộc phá hoại tổng hợp cuối cùng của đau khổ, cả trong thân xác lẫn tâm hồn. Nhưng trước hết, cái chết là sự tan rã hoàn toàn căn tính tâm thể lý của con người. Khi lìa khỏi xác, hồn vẫn sống và tồn tại, trong khi xác tan nát dần dần đúng như lời Chúa phán khi con người phạm tội vào buổi đầu lịch sử trần thế: “Bởi ngươi là bụi đất, ngươi sẽ trở về với đất bụi” (St 3, 19). Bởi vậy, dù cái chết không phải là sự đau khổ theo nghĩa thời gian của từ ngữ, hoặc một cách nào đó, cái chết ở bên kia mọi nỗi đau khổ, thì sự dữ mà con người cảm nghiệm được từ cái chết vẫn mang đặc tính chung kết và toàn diện. Nhờ công trình Cứu Độ, Người Con Một đã giải thoát nhân loại khỏi tội và khỏi chết. Người khởi đầu bằng việc xóa bỏ khỏi lịch sử nhân loại ách thống trị của tội lỗi đã đâm rễ sâu do ảnh hưởng của thần dữ ngay từ tội nguyên tổ, rồi Người ban cho con người khả năng sống trong ơn thánh hóa. Khi chiến thắng tội lỗi, Người cũng tước bỏ quyền lực của sự chết; khi phục sinh, Người đã mở cửa cho sự phục sinh mai sau của thân xác. Cả hai đều là những điều kiện thiết yếu của đời sống vĩnh cửu, tức là hạnh phúc cuối cùng của con người được kết hợp với Thiên Chúa. Tóm lại, trong viễn tượng cánh chung, đau khổ đã hoàn toàn bị xóa bỏ đối với những kẻ được cứu thoát.

Nhờ công cuộc cứu độ của Đức Kitô, con người có hy vọng được sống và nên Thánh muôn đời ngay khi còn lưu ký trần gian. Và mặc dù Đức Kitô đã chiến thắng tội lỗi và sự chết nhờ Thập Giá và sự Phục Sinh, nhưng Người vẫn không loại trừ những đau khổ tạm thời của đời người và không giải thoát đời người trong toàn thể chiều kích lịch sử của nó khỏi sự đau khổ, tuy thế, chiến thắng ấy đã đem lại cho tất cả chiều kích lịch sử đó và cho mọi nỗi đau khổ một ánh sáng mới, ánh sáng Cứu Độ. Đó là ánh sáng Phúc Âm, Ánh sáng Tin Mừng. Ánh sáng này tỏ hiện chân lý được diễn tả trong cuộc gặp gỡ của Chúa Giêsu với ông Nicôđêmô: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một” (Ga 3, 16). Chân lý này đã đảo lộn triệt để để khung cảnh lịch sử và tình cảnh tại thế của con người: bất kể tội lỗi đã bén rễ sâu vào trong lịch sử nhân loại, được coi như di sản nguyên khởi, như tội của thế gian, như tổng số những tội cá nhân, Thiên Chúa đã yêu Người Con, Người vẫn luôn yêu thương, rồi đến thời đến buổi, tình yêu cao cả ấy, Người đã ban Người Con để tiêu diệt tận gối rễ sự dữ của nhân loại, và khi đem ơn Cứu Độ đến, Người đã trở thành gần gũi với toàn thể thế giới những khổ đau của con người.

16. Khi thi hành sứ mạng thiên sai giữa lòng dân tộc Israel, Đức Kitô luôn gần gũi với thế giới những đau khổ của nhân loại. “Đi tới đâu, Người thi ân giáng phúc tới đó” (Cvsđ 10, 38) và hành động của Người trước hết nhắm đến những kẻ đau khổ và những người cần giúp đỡ. Người chữa lành kẻ bệnh tật, an ủi người sầu khổ, cho kẻ đói ăn, chữa lành kẻ câm điếc, mù lòa, phong cùi, quỷ ám và nhiều tật nguyền, ba lần làm cho kẻ chết sống lại. Người nhạy cảm với mọi đau khổ của nhân loại, cả thể lý lẫn tinh thần. Đồng thời Người còn giảng dạy, và trọng tâm giáo huấn của Người là bài giảng Bát Phúc, qua đó Người ngỏ lời với những kẻ gánh chịu nhiều đau khổ khác nhau nơi trần gian tạm bợ này. Đó là những người có “tâm hồn nghèo khó”, những người “lo phiền sầu khổ”, những người “khao khát sống cuộc đời chính trực”, những người “bị ngược đãi vì chính đạo”, những người “vì Đức Kitô mà bị nhục mạ, hành hạ và vu khống đủ điều xấu xa” (Mt 5,3-11). Đó là trình thuật của Thánh Máthêu, Thánh Luca còn nêu rõ những người “bây giờ phải đói” (6, 21).

Đức Kitô luôn gần gũi với thế giới những đau khổ của nhân loại, và nhất là Người còn đón nhận những đau khổ ấy. Trong thời gian hoạt động công khai, không những Người đã chịu đựng vất vả, không chốn nương thân, bị hiểu lầm bởi chính những người thân tín nhất, mà nhất là, cáng ngày Người càng bị bao vây chặt chẽ trong vòng thù nghịch, và những toan tính muốn tiêu diệt mạng sống của Người ngày càng trở nên rõ rệt hơn. Đức Kitô ý thức điều đó, và Người vẫn thường nói với các môn đệ về những đau khổ và cái chết đang chờ đón Người: “Này chúng ta lên Giêsusalem và Con Người sẽ bị nộp cho các thượng tế và kinh sư. Họ sẽ lên án xử tử Người và sẽ nộp Người cho dân ngoại. Họ sẽ nhạo báng Người, nhổ vào mặt Người, họ sẽ đánh đòn và giết chết Người; ba ngày sau Người sẽ sống lại” (Mc 10,33-34). Chúa Kitô đón nhận cuộc khổ nạn và cái chết, và Người ý thức rõ ràng rằng mình phải chu toàn sứ mạng đúng theo cách ấy. Chính nhờ sự đau khổ đó mà Người đã cứu nhân loại khỏi phải chết, nhưng “được sống đời đời”. Chính nhờ thập giá mà Người đã đi đến tận gốc rễ của sự dữ vốn ăn sâu trong lịch sử nhân loại và trong tâm hồn con người. Chính nhờ thập giá, Người mới hoàn tất được công cuộc cứu độ. Trong ý định của Tình yêu muôn thuở, công cuộc này vốn mang đặc tính cứu độ.

Bởi đó, Đức Kitô đã nghiêm khắc khiển trách Phêrô, khi ông muốn Người từ bỏ ý nghĩa về sự đau khổ và cái chết Thập giá (Mt 16, 23). Và khi ông muốn dùng gươm để bảo vệ Người lúc Người bị bắt tại Giếtsimani, thì Người đã nói với ông: “Xỏ gươm vào bao… Làm thế thì lời Kinh Thánh ứng nghiệm được sao?” (Mt 26,52-54). Và Người nói: “Chén đắng Cha đã trao cho Thầy, lẽ nào Thầy không uống?” (Ga 18, 11). Câu nói ấy, cũng như các câu nói khác rải rác trong Tin Mừng, cho thấy Chúa Kitô thực rất thấm nhiễm tư tưởng mà Người đã diễn tả khi gặp ông Nicôđêmô: “Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống đời đời” (Ga 3, 16). Ý thức được sức mạnh cứu độ của đau khổ, Chúa Kitô đã dấn bước tới đau khổ của mình. Người dấn bước trong sự tuân phục Chúa Cha, nhất là Người đã kết hợp với Chúa Cha trong chính tình yêu mà Chúa Cha đã yêu thế gian và con người nơi thế gian. Chẳng thế mà Thánh Pholô đã viết về Chúa Kitô: “Đấng đã yêu mến tôi và thí mạng vì tôi” (Gl 2, 20).

17. Kinh Thánh phải được nên trọn. Trong Cựu Ước có khá nhiều bản văn về Đấng Messia, loan báo những đau khổ của Đấng sau này được Thiên Chúa xức dầu. Trong số đó có một bản văn rất đáng lưu ý, đó là bản văn quen gọi là Bài ca thứ tư về Người tôi tớ của Giavê trong sách ngôn sứ Issia. Vị ngôn sứ này thật xứng đáng với danh hiệu là Thánh sứ thứ 5. Trong bài ca, ngôn sứ đã tường thuật những đau khổ của Người tôi tớ một cách rất sống động và sâu sắc, dường như tác giả là người đã chứng kiến tận mắt, mắt xác thịt cũng như mắt tinh thần. Nhờ những câu văn đó, cuộc thương khó của Chúa Kitô đã trở nên sáng tỏ và cảm động hơn lối diễn tả của chính các tác giả Tin Mừng. Này đây con người đau khổ đích thực đã xuất hiện trước mắt chúng ta:

“Không duyên dáng, không oai vệ bắt chúng tôi phải để ý…
Người bị khinh và là đồ phế bỏ của loài người.
Con người đớn đau, ốm o xo bại như một kẻ gặp chúng tôi thì lo giấu mặt bị khinh khi, và chúng tôi chẳng thèm đếm xỉa. Trái lại, chính Người đã mang lấy các bệnh tật của chúng tôi.
Chính Người đã vác lấy những đau khổ của chúng tôi.
Còn chúng tôi, chúng tôi lại kể Người như kẻ bị trời đánh, bị Thiên Chúa trừng phạt và đày đọ.
Nhưng Người đã bị đâm thâu vì những ngỗ nghịch của chúng tôi.
Và vì tội vạ của chúng tôi, Người đã bị nghiền tán.
Đã giáng xuống Người hình phạt đổi lấy an bình cho chúng tôi.
Và nhờ những vết hằn Người phải chịu, chúng tôi có phương được lành.
Chúng tôi hết thảy đã xiêu lạc như chiên cừu mỗi người mỗi ngả.
Nhưng Giavê lại để Người phải lụy vì tội vạc của hết thảy chúng tôi”

(Is 53,2-6)

Có thể nói bài ca về Người Tôi tớ đau khổ chứa đựng một nội dung giống hệt từng chi tiết trong các chặng thương khó của Chúa Kitô: bắt bớ, sỉ nhục, bạt tai, khạc nhổ, phẩm giá của tù nhân bị khinh miệt, bị xử án bất công, bị đánh đòn, đội mão gai, chế nhạo, vác thập giá, đóng đinh, hấp hối.

Trong lời kể của vị ngôn sứ, có một điều khiến chúng ta chấn động hơn cả trình thuật Thương Khó, đó là chiều sâu của hy tế Đức Kitô. Dù vô tội, mà này đây Người gánh lấy những khổ đau của mọi người, bởi vì Người đã vác lấy tội lỗi của mọi người “Thiên Chúa đã để Người phải lụy vì tội vạ hết thảy chúng tôi”. Mọi tội lỗi của con người xét theo chiều rộng cũng như chiều sâu đều trở nên nguyên nhân thật sự cho nỗi đau khổ của Đấng Cứu Chuộc. Nếu đau khổ được đo lường theo sự dữ phải chịu, thì lời Isaia cho phép chúng ta hiểu được tầm mức của sự dữ và của đau khổ mà Chúa Kitô đã phải trải qua.

Có thể nói đó là sự đau khổ thay thế, nhưng nhất là sự đau khổ cứu chuộc. Đấng chịu đau khổ trong lời tiên báo đó quả thật là “Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa bỏ tội trần gian” (Ga 1, 29). Nhờ đau khổ của Người, mọi tội lỗi được xóa sạch, vì chỉ mình Người với tư cách là Con Một, mới có thể mang lấy, đảm nhận lấy những tội lỗi ấy bắng tình yêu đối với Chúa Cha, tình yêu thắng vượt sự dữ của mọi tội lỗi, và theo một nghĩa nào đó, Người đã hủy diệt hoàn toàn sự dữ đó trong phạm vi thiêng liêng của mối liên hệ giữa Thiên Chúa và nhân loại, và Người đã khỏa lấp khoảng trống ấy bằng sự thiện hảo.

Ở đây ta đụng chạm đến vấn đề hai bản tính của một Ngôi Vị độc nhất mang nỗi đau khổ cứu độ. Qua cuộc thương khó và cái chết trên thập giá, Đấng đã thực hiện việc cứu chuộc, lại chính là Con Một mà Thiên Chúa đã tặng ban. Và đồng thời, Người Con ấy, đồng bản tính với Cha, lại chịu đau khổ với tư cách là con người. Đau khổ của Người có những chiều kích nhân loại; sâu xa và mãnh liệt ở mức độ chưa từng có trong lịch sử nhân loại, tính cách sâu xa và mãnh liệt đó vẫn không thể so sánh được chính ở chổ Đấng chịu đau khổ - là Con Duy Nhất: Thiên Chúa bởi Thiên Chúa. Bởi thế, chỉ mình Người, với tư cách là Người Con Một, mới dập tắt được sức tàn phá của sự dữ hàm chứa trong tội lỗi của con người, trong mọi tội lỗi và trong mọi lãnh vực chịu ảnh hưởng của tội, theo các chiều kích của lịch sử nhân loại trên địa cầu.

18. Bây giờ, có thể nói rằng, những nhận định trên đưa chúng ta thẳng đến vườn Giếtsimani và đồi Golgotha, nơi đã ứng nghiệm bài ca Người Tôi tớ đau khổ trong Isaia. Nhưng trước khi đến đó, ta cùng đọc lại những lời tiếp theo của bài ca, qua đó ta thấy trước cuộc khổ nạn ở Giếtsimani và ở Golgotha. Người Tôi tớ đau khổ - chủ đề này cũng rất cần thiết để phân tích cuộc khổ nạn của Đức Kitô - đã hoàn toàn tự nguyện gánh lấy các nỗi đau khổ mà ta đã nói đến:

“Bị ngược đãi Người cam chịu nhục,
chẳng mở miệng kêu ca.
Như chiên bị đem đi làm thịt,
Như cừu câm nín khi bị xén lông,
Người chẳng mở miệng kêu ca.
Người đã bị bắt, bị lên án, bị thủ tiêu.
Số phận của Người nào có ai màng tới?
Người đã bị khai trừ khỏi chốn dương gian,
Vì tội lỗi của dân,
Người đã bị đánh nhừ tử.
Người đã bị chôn cất giữa bọn ác ôn,
Bị mai táng cùng quân trọc phú,
Mặc dù đã không làm chi hung ác bạo tàn,
Cũng chẳng hề nói lời xảo trá gian ngoa”

(Is 53,7-9)

Đức Kitô chịu đau khổ một cách tự nguyện, và Người chịu đau khổ trong tư thế kẻ vô tội. Qua đau khổ, Người đón nhận câu hỏi mà bao lần con người đã đặt ra, câu hỏi đã được sách Gióp đã diễn tả một cách được nói là triệt để. Tuy nhiên, không những Đức Kitô mang nơi mình chính câu hỏi đó (đối với Người, câu hỏi này còn mang một ý nghĩa triệt để hơn nữa, vì Người là con người như ông Gióp, nhưng cũng là Con Thiên Chúa), mà đồng thời Người còn mang lại câu trả lời đầy đủ nhất có thể có được. Có thể nói câu trả lời cũng được hình thành cùng một cách thức như câu hỏi. Đâu là nguyên nhân và ý nghĩa của đau khổ? Câu hỏi đã được Đức Kitô giải đáp không những qua giáo huấn của Người, tức là Tin Mừng, nhưng trên hết, bằng chính sự đau khổ của Người. Đau khổ ấy được bổ túc một cách chặt chẽ và đầy đủ nhờ giáo huấn của Tin Mừng. Đau khổ là tiếng nói cuối cùng, tổng hợp toàn bộ giáo huấn ấy, là ngôn ngữa thập giá, theo kiểu nói của Thánh Phaolô (xc lCr 1, 18)

Ngôn ngữ thập giá đó đã đem lại một thực tại rõ ràng cho hình ảnh trong sách ngôn sứ xưa. Trong giáo huấn công khai của Đức Kitô, có nhiều bản văn, nhiều diễn từ cho thấy Người đã mau mắn chấp nhận đau khổ, theo thánh ý Chúa Cha, để cứu độ trần gian. Nhưng đỉnh cao của sự chấp nhận đó là lời cầu nguyện ở vườn Giếtsimani: “Lạy Cha, nếu được thì xin cho con khỏi uống chén đắng này, nhưng xin đừng theo ý con, mà theo ý Cha” (Mt 26, 42). Những lời đó rất có ý nghĩa vì nhiều lý do: chứng thực tình yêu của Chúa Con đối với Chúa Cha qua sự vâng phục, đồng thời cũng xác nhận Đức Kitô đã chịu đau khổ thật sự. Lời nguyện của Đức Kitô ở vườn Cây Dầu chứng tỏ một tình yêu chân thành qua đau khổ thật sự. Lời ấy xác nhận một cách hết sức đơn giản nhưng tận căn sự thật nơi con người: đau khổ là chịu đựng một điều ác mà đối diện với nó, con người rùng mình khiếp sợ. Họ nói: “Giả như tôi mà thoát được!” đúng như Đức Kitô đã từng thân thưa ở vườn Cây Dầu.

Lời Đức Kitô đồng thời cũng xác nhận tính cách sâu xa và mãnh liệt độc nhất vô nhị của sự đau khổ mà chỉ có Người là Con Một Thiên Chúa mới có thể cảm nhận được. Lời ấy xác nhận mức độ sâu xa và mãnh liệt mà lời ngôn sứ trên đây phần nào đã giúp ta hiểu, dĩ nhiên là không hoàn toàn (muốn được vậy phải thấu triệt mầu nhiệm Thiên Chúa và con người của Đấng chịu đau khổ đó), nhưng ít là hiểu được sự dị biệt và cả những tương đường giữa những đau khổ mà con người có thể chịu với đau khổ của Thiên-Chúa-làm-người. Chính ở vườn Cây Dầu là nơi mà sự đau khổ đó được tỏ bày hầu như dứt khoát cho tâm hồn Đức Kitô, với trọn vẹn ý nghĩa đã được ngôn sứ Isaia diễn tả về sự dữ mà đau khổ ấy gợi lên.

Tiếp theo là những lời thổn thức của Đức Kitô trên đồi Golgotha. Những lời này chứng tỏ mức độ lớn lao - độc nhất trong lịch sử thế giới - của sự dữ do đau khổ gây nên. Lời than thở: “Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa, sao Chúa lại bỏ con?” không chỉ diễn tả tình trạng bị bỏ rơi, bị hắt hủi thường thấy trong Cựu Ước, đặc biệt trong các Thánh Vịnh, nhất là Thánh Vịnh 22, 2 vừa trích dẫn. Có thể nói lời than thở đó phát xuất ngay trên bình diện sự kết hợp không thể phân ly giữa Chúa Con và Chúa Cha, và được thốt lên bởi vì Chúa Cha đã “đổ trên đầu Người tội vạ của tất cả chúng ta” (Is 53, 6), như Thánh Phaolô sau này diễn tả: “Đức Kitô là Đấng chẳng hề biết tội là gì, nhưng vì chúng ta, Thiên Chúa đã coi Người như hiện thân của tội lỗi” (2 Cr 5, 21). Cùng với sức nặng khủng khiếp đó, bao gồm tất cả sự dữ - chứa đựng trong tội - tức là quay lưng lại với Thiên Chúa, thì Đức Kitô, do sự kết hiệp thần linh sâu xa giữa Chúa Con và Chúa Cha, cũng cảm thấy - một cách không thể diễn tả được bằng ngôn từ loài người - nỗi đau đớn của sự xa cách, bị Chúa Cha ruồng bỏ, bị đoạn tuyệt với Thiên Chúa. Nhưng chính nhờ sự đau khổ đó mà Người thực hiện được công cuộc cứu độ, và Người đã có thể thốt lên khi sắp tắt thở: “mọi việc đã hoàn tất” (Ga 19, 30).

Ta cũng có thể nói Sách Thánh đã hoàn tất, và những lời trong bài ca về Người Tôi tớ đau khổ đã được thực hiện trọn vẹn: “Chúa đã muốn Người phải tan nát vì đau khổ” (Is 53, 10).

Đau khổ của con người đã đạt tới đỉnh cao nơi cuộc khổ nạn của Đức Kitô. Đồng thời nó mang lấy chiều kích hoàn toàn mới mẻ và đã đi vào một trật tự mới: đau khổ được liên kết với tình yêu, tình yêu mà Chúa Kitô đã nói với Nicôđêmô, tình yêu làm nên điều thiện hảo bằng cách rút tỉa ngay từ sự dữ, ngay từ đau khổ, cũng như sự thiện cao cả nhất - tức là ơn cứu độ thế giới - đã được thực hiện qua thập giá Đức Kitô, và không ngừng khởi đi từ thập giá. Cây thập giá đã trở thành nguồn mạch tuôn trào dòng nước đem lại sự sống (xc Ga 7,37-38). Cũng chính từ thập giá, chúng ta phải đặt lại câu hỏi về ý nghĩa đau khổ và chúng ta tìm được lời giải đáp trọn vẹn về câu hỏi đó.

Tông thư Salvifici doloris - Về ý nghĩa đau khổ (4)

Ban hành tại Rôma, gần đền thờ Thánh Phêrô.

Ngày lễ kính Đức Mẹ Lộ Đức, 11.2.1984

Năm thứ sáu
Triều đại Giáo Hoàng của tôi
GIOAN PHAOLÔ II

--------------------------------

Bài liên quan

Tông thư Salvifici doloris - Về ý nghĩa đau khổ

Tông thư Salvifici doloris - Về ý nghĩa đau khổ (2)

Tông thư Salvifici doloris - Về ý nghĩa đau khổ (3)